Home / QUY HOẠCH / QUY HOẠCH / Đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo đô thị

Đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo đô thị

Sự phân hoá giàu nghèo có thể nhận thấy rõ nét giữa thành thị và nông thôn, giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng kinh tế, hay bản thân ngay trong từng đô thị, nhất là các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… Đại dịch Covid – 19 lần thứ tư bùng phát ở Việt Nam, một lần nữa lại bộc lộ yếu điểm về vấn đề nhà ở cho người lao động ở các thành phố lớn… Điều đó cũng minh chứng cho quá trình đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo đô thị là một thực tế khách quan, nếu chính quyền đô thị không dám nhìn thẳng vào sự thật để tìm kiếm các giải pháp căn cơ về cơ chế chính sách với một quyết tâm chính trị, nghĩa đồng bào thì rất khó giảm thiểu tình trạng này.

 phanhoa

Đô thị hoá là một biểu hiện của phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia hay mỗi vùng miền của đất nước. Đô thị hoá là một quá trình biến chuyển kinh tế – xã hội – văn hoá và không gian lãnh thổ, gắn liền với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của xã hội loài người, trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi lối sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ chức bộ máy hành chính – chính trị – quân sự. Các nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội cao thì có tỷ lệ đô thị hoá cao.

Quá trình đô thị hóa là quá trình phản ánh sự nâng cao vai trò, vị trí, chức năng và hiệu quả KT – XH của các đô thị trong sự vận động phát triển của xã hội loài người. Quá trình này bao quát những thay đổi trong sự phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là trong quần cư, trong cơ cấu nghề nghiệp và cơ cấu lao động, trong cấu trúc tổ chức không gian môi trường sống của con người.

Có thể nói về bản chất đô thị hóa là một quá trình biến động toàn diện về KT – XH, môi trường mang tính tất yếu khách quan, diễn ra rõ nét, sôi động trên phạm vi toàn cầu. Quá trình đô thị hóa chịu sự tác động của sự phát triển và vận động của lực lượng sản xuất, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất xã hội và kèm theo đó là sự phân công lao động xã hội.

Một cách hiểu khác, về khía cạnh văn hóa thì đô thị hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa nông thôn thành văn hóa đô thị (hoặc văn hóa nông nghiệp thành văn hóa công nghiệp). Về khía cạnh kinh tế thì đô thị hóa là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa là một tiến trình tất yếu song hành với lịch sử phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới…

Mặt tích cực của quá trình đô thị hóa đuợc thể hiện ở các khía cạnh: (i) Thúc đẩy phát triển KT – XH toàn cầu một cách rõ rệt thông qua sự tăng trường nhanh chóng sản phẩm xã hội GDP ở khu vực đô thị; (ii) Thúc đẩy quá trình phát triển khoa học kĩ thuật, nghiên cứu và ứng dụng nhiều công nghệ mới; (iii) Thúc đẩy và thể hiện nền văn minh nhân loại, nâng cao dân trí, và tạo điều kiện phát triển xã hội toàn diện; (iv) Tạo điều kiện cải thiện, nâng cao và phát triển điểm dân cư nông thôn trong sự phát triển hài hòa hệ thống đô thị quốc gia…

Hiện nay, hơn một nửa dân số thế giới sống ở các đô thị, đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên khoảng 60%. Tăng trưởng dân số đô thị đang diễn ra ở hầu hết các nước đang phát triển, với khoảng 66 triệu người di cư đến các đô thị mỗi năm. Đô thị hóa luôn là động lực quan trọng đối với phát triển kinh tế: không có quốc gia nào có được mức thu nhập cao nếu không trải qua quá trình đô thị hóa thành công.

Theo báo cáo mới đây của Chương trình dân số của Liên Hợp Quốc đến năm 2050, số cư dân thành thị sẽ chiếm 2/3 trên tổng dân số toàn cầu và 80% GDP của toàn bộ hên kinh tế thế giới. Cũng theo bản báo cáo này thì hiện 20% dân số thế giới đang sinh sống và làm việc tại 600 thành phố lớn nhất hành tinh với 60% GDP toàn cầu.

Tại một số nước công nghiệp phát triển hàng đầu, tỷ lệ đô thị hoá đã khá cao, cụ thể như: Liên hiệp vương quốc Anh- 91%, Thuỵ Điển- 87%, LB Đức- 85%, Pháp- 78% , Mỹ- 77%, Canada- 76%, Australia- 89%, New Zealand- 85%,Israel- 89%, Nhật Bản- 78%. Khi nào tỷ lệ này đạt mức 70% thì tốc độ đô thị hoá sẽ chậm lại và gần như ngừng khi đã đạt ngưỡng 80%.

Tại Đông Nam Á, tỷ lệ đô thị hoá nói chung còn ở mức thấp và với sự chênh lệch khá lớn. Không kể Singapore được coi là quốc gia đô thị, thì Malaysia đã đạt mức 75% tương đương với Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đạt trên 50%, Philippines- 45% còn Campuchia chỉ là 20,7%.

Tuy nhiên, đô thị hóa cũng có những mặt tiêu cực của nó như:

(1) Sử dụng năng lượng không bền vững trong khi nhu cầu năng lượng và nước toàn cầu dự kiến sẽ tăng là 40% và 50%;

(2) Quản lý chất thải rắn chiếm khoảng phần lớn ngân sách hàng năm của các thành phố ở các nước có thu nhập thấp và trung bình;

(3) Các tác động của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, lũ lụt và hạn hán có thể kết hợp lẫn nhau, làm cho quản lý rủi ro thiên tai trở nên phức tạp hơn;

(4) Gia tăng bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo trong đô thị…khu ổ chuột vẫn tiếp tục là một thách thức của các thành phố ở các nước đang phát triển;

(5) Thể chế và pháp luật không toàn diện;

(6) Quản lý đô thị gặp nhiều khó khăn…

Tại Việt Nam tiếp nối hai thập kỷ phát triển sau đổi mới, mười năm qua (2011 – 2020), cơ cấu kinh tế đất nước tiếp tục dịch chuyển sang phi nông nghiệp nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực công nghiệp, xây dụng, và dịch vụ. So với hai thập kỷ trước, thập kỷ vừa qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thay đổi khi tăng trưởng công nghiệp chậm lại so với thập kỷ trước, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng dịch vụ dân số đô thị vẫn giữ tốc độ ổn định (khoảng 3%/ năm). Tỉ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm nhanh từ 60% (2008) xuống còn 40% (2017).

Sự dịch chuyển này phản ánh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa với sự gia tăng dân số trong ranh giới (hành chính) đô thị bình quân gần 1 triệu người mỗi năm, từ 24.6 triệu năm 2008 tăng lên trên 33 triệu năm 2018. Tăng trưởng kinh tế ấn tượng thời gian qua đã giúp Việt Nam giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo trên phạm vi cả nước, tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, giống như nhiều nền kinh tế khác, bất bình đẳng, hay khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng ngày một tăng lên trong xã hội.

Sự phân hoá giàu nghèo có thể nhận thấy rõ nét giữa thành thị và nông thôn, giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng kinh tế, hay bản thân ngay trong từng đô thị, nhất là các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… Theo báo cáo của tổ chức Oxfam, hiện nay, số người giàu tại Việt Nam đang ngày một gia tăng. Tuy là nhóm thiểu số, những người giàu này lại nắm giữ phần nhiều của cải vật chất trong xã hội, đồng thời, khoảng cách về thu nhập của nhóm thiểu số này với các nhóm khác trong xã hội, đặc biệt là nhóm nghèo nhất cũng tăng lên nhanh chóng. Sự chênh lệch giàu nghèo đô thị dẫn đến sự bất bình đẳng trong các dịch vụ đô thị như nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, cấp điện, nước, thoát nước bẩn vệ sinh môi trường, tiện ích hay chất lượng sống đô thị…

Kể từ năm 2006 đến nay (từ khi Luật Nhà ở 2005 và Luật Kinh doanh bất động sản 2006 lần đầu tiên được Quốc hội thông qua) thị trường bất động sản đã phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước, đặc biệt là tại các đô thị lớn cả về số lượng cũng như quy mô của dự án. Số lượng các dự án bất động sản được đầu tư xây dựng tăng liên tục, nhiều dự án có diện tích đất lên đến hàng vài trăm ha, tổng mức đầu tư hàng ngàn tỷ đồng đã được triển khai xây dựng. Các loại hình sản phẩm bất động sản cũng ngày càng được mở rộng, không chỉ là thị trường nhà ở mà có cả thị trường quyền sử dụng đất, thị trường văn phòng cho thuê, thị trường bất động sản du lịch nghỉ dưỡng, khu công nghiệp, tín dụng bất động sản…Việc tạo dựng các phân khúc nhà ở chất lượng cao với tỷ trọng lớn đã khiến phần đông những người dân đô thị có thu nhập thấp, người nghèo đô thị, công nhân, sinh viên…không có nhiều khả năng tiếp cận…mặc dù Chính phủ đã có gói hỗ trợ 30 000 tỷ đồng cho phát triển nhà ở xã hội.

Đại dịch Covid -19 lần thứ tư bùng phát ở Việt Nam (giữa năm 2021), một lần nữa lại bộc lộ yếu điểm vấn đề nhà ở cho người lao động ở các thành phố lớn hay các khu công nghiệp tập trung. Điều đó cũng minh chứng cho quá trình đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo đô thị là một thực tế khách quan, nếu chính quyền đô thị không dám nhìn thẳng vào sự thật để tìm kiếm các giải pháp căn cơ về cơ chế chính sách với một quyết tâm chính trị, nghĩa đồng bào thì rất khó giảm thiểu tình trạng này.

Việc phát triển các khu đô thị chất lượng cao như Ciputra Nam Thăng Long, Vinhomes Riverside (Hà Nội), Ecopark (Hưng Yên), Phú Mỹ Hưng, Vinhomer Golden River (TP. HCM)… dường như chỉ dành cho nhũng người có thu nhập cao… là một thực tế khách quan, là nhu cầu có thật trong xã hội… Công bằng mà nói, chênh lệch giàu nghèo trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế thị trường, trong quá trình đô thị hóa là quy luật khách quan (nó bị chi phối bởi quy luậl của nền kinh tế thị trường), không có quốc gia nào, đô thị nào tránh khỏi… mà chỉ có các biện pháp giảm thiểu sự tác động ít hoặc nhiều.

Quan điểm cho rằng “việc tạo ra những không gian riêng biệt, các khu đô thị phát triển kín cổng cao tường, nơi những người giàu tách mình khỏi thành phố đã củng cố thêm suy nghĩ cho rằng giới thượng lưu/người siêu giàu có thể tránh xa sự tắc nghẽn, xô bồ của trung tâm đô thị và làm tăng thêm khoảng cách với những người nghèo” … Quan điểm này không thể nói không phù hợp với quy luật khách quan của các nước đang phát triển trong quá trình thúc đẩy phát triển nền kinh tế và quá trình đô thị hóa…

Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình đổi mới, hội nhập sâu rộng vào khu vực và quốc tế. Cùng với nhận thức sâu sắc về vai trò, vị thế và tầm quan trọng của quá trình đô thị hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến quá trình này. Cùng với các chiến lược, chương trình thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, chương trình nhằm định hướng, chỉ đạo thực hiện quá trình đô thị hóa thành công. Ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, cơ chế chính sách nhằm xóa đói giảm nghèo, trong đó có khu vực đô thị, hướng tới…không ai bị bỏ lại phía sau.

Mặc dù vậy thời gian tới, Việt Nam rất cần tiếp tục tập trung vào các chính sách hỗ trợ xây dụng mạng lưới an sinh xã hội bền vững cho người nghèo cũng như thúc đẩy việc tạo ra các việc làm có thu nhập ổn định và bền vững trong khu vục đô thị. Việc giảm bất bình đẳng thông qua tăng đầu tư công, thúc đẩy việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là giáo dục và y tế là vô cùng cần thiết.

Bởi, trình độ học vấn có liên hệ nhất định tới việc gia tăng cơ hội tiếp cận việc làm cũng như khả năng nâng cao thu nhập, dịch chuyên kỹ năng và dịch chuyển xã hội của một cá nhân…Bên cạnh đó, việc lồng ghép các chỉ số bất bình đẳng vào các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, trong phát triển đô thị, nhà ở, việc làm cũng như thực thi các thiết chế xã hội có tính đặc thù hướng đến nhóm giàu có trong xã hội, giàu có trong đô thị có trách nhiệm chia sẻ, đóng góp nhiều hơn về nguồn lực, tạo cơ hội để thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo.

Theo đó, quá trình đô thị hóa phải được đặt trong tổng thể phát triển KT – XH của Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn ngoài năm 2045, các quan điểm nhân văn trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần quan trọng phục vụ mục tiêu xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

TS.KTS. Trương Văn Quảng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Các chuyên đề thuộc các lĩnh vực phục vụ công tác “ Đánh giá quá trình đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2020 và định hướng mục tiêu nhiệm vụ phát triển đô thị giai đoạn 2021 – 2030, kế hoạch 5 năm 2021 – 2025” của các Cục, Vụ, Viên – Bộ Xây Dựng.

– Dự thảo báo cáo tổng hợp “Đánh giá quá trình đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2020 và định hướng mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đô thị giai đoạn 2021 – 2030, kế hoạch 5 năm 2021-2025”/ Cục phát triển đô thị – Bộ Xây Dựng.

– Dịch chuyển xã hội và bình đẳng cơ hội tại Việt Nam: Xu hướng và các yếu tố tác động/ Oxfam.2018.

– Bước tiến mới giảm nghèo và thịnh vượng chung ở Việt Nam/ Ngân hàng thế giới.2018.

Check Also

Mot-Goc-Do-Thi-Nui-T

TIÊU CHÍ LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM QUY HOẠCH XÂY DỰNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TỈNH QUẢNG NAM

TIÊU CHÍ LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM QUY HOẠCH XÂY DỰNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN …