Home / QUY HOẠCH / Những hệ lụy – tồn tại – bất cập đối với các định hướng phát triển theo các quy hoạch được phê duyệt tại thành phố Đà Nẵng

Những hệ lụy – tồn tại – bất cập đối với các định hướng phát triển theo các quy hoạch được phê duyệt tại thành phố Đà Nẵng

Trong một bài viết trước đây về kiểm soát phát triển đô thị tại thành phố Đà Nẵng, chúng tôi đã đề cập đến 5 lĩnh vực chính mà hoạt động kiểm soát trong giai đoạn 20 năm vừa qua đã bộc lộ một số tồn tại, bất cập. Các lĩnh vực đó là:

– Kiểm soát quá trình lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch (Bao gồm quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết).

– Kiểm soát phát triển dân số theo quy hoạch.

– Kiểm soát sử dụng đất xây dựng đô thị.

– Kiểm soát về không gian kiến trúc, cảnh quan.

– Kiểm soát phát triển hạ tầng kỹ thuật và môi trường.

Trong bài viết này, chúng tôi muốn thảo luận đôi điều về hệ lụy của những tồn tại, bất cập nói trên đối với các định hướng phát triển thành phố theo các quy hoạch được duyệt; hướng tới mục tiêu thành phố văn minh, hiện đại, phát triển bền vững, thành phố thông minh.

1. Trong hoạt động kiểm soát quá trình lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch

 Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng sau khi được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, đó là quy hoạch chung đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 145/2003/QĐ-TTg ngày 15/7/2003. Theo đó, các thành phần chức năng cơ bản như công nghiệp, dân cư, hệ thống trung tâm (bao gồm trung tâm thành phố và các trung tâm khu vực), mạng lưới giao thông đối ngoại, giao thông đô thị,… đã được xác định tương đối phù hợp và khả thi cho thời kỳ quy hoạch. Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung được duyệt năm 2013 cũng cơ bản giữ nguyên các định hướng chính của quy hoạch được duyệt năm 2003 (sau đây gọi là quy hoạch 2003). Như vậy, theo trình tự Quy định thì sau khi quy hoạch chung được duyệt, cần phải lập quy hoạch chi tiết các khu chức năng (nay gọi là quy hoạch phân khu) mà mãi đến đầu năm 2017, quy hoạch phân khu của 7 khu đô thị mới được lập và phê duyệt. Trong khi đó, do chủ trương của chính quyền thành phố cần nhanh chóng phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và mở rộng không gian Đô thị, hàng loạt các đồ án xây dựng (nay gọi là quy hoạch chi tiết) và dự án đầu tư đã được lập, phê duyệt và triển khai thực hiện. Trong số đó, nhiều đồ án đã không tuân thủ các định hướng của quy hoạch 2003 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Điển hình là: Thay đổi chức năng, thậm chí có thể nói là làm mất đi một không gian chức năng hết sức quan trọng là công viên Trung tâm thành phố; xâm lấn vào một không gian sinh thái tự nhiên ở khu vực nhạy cảm về môi trường, là khu vực Hòa Xuân, Hòa Quý,… Trung tâm thành phố và các trung tâm khu vực cho đến nay, tức là sau khi các quy hoạch phân khu đã được phê duyệt, vẫn chưa có một hoạch định nào về phạm vi, quy mô và định hướng về hình thái, cấu trúc không gian, các chỉ tiêu khống chế,… Hơn thế nữa, các quy hoạch chi tiết mà chủ yếu là áp dụng giải pháp chia lô nhà phố liền kề (có kích thước phổ biến là 5x20m) và bán cho các nhà đầu tư, người dân, trong nhiều trường hợp đã lấn vào các khu vực trung tâm theo định hướng quy hoạch chung. Hậu quả của việc không kiểm soát tốt công tác quy hoạch như đã nêu là mất kiểm soát trong sử dụng đất xây dựng đô thị, trong việc hình thành và phát triển các không gian chức năng, các không gian kiến trúc, cảnh quan,… Điều này đặt ra những thách thức không nhỏ cho quá trình tái cấu trúc và phát triển đô thị trong giai đoạn sắp tới.

2. Trong kiểm soát phát triển dân số

Quy hoạch năm 2003, dự báo dân số Đà Nẵng đến năm 2020 là 1,2 triệu người. Đến điều chỉnh quy hoạch chung năm 2013 thì xác định dân số thành phố đến năm 2020 là 1,6 triệu người và đến 2030 là 2,5 triệu người. Và theo số liệu nêu trong đề cương nghiên cứu Quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội thành phố thì dân số Đà Nẵng tính đến năm 2018 là 1,04 triệu người. Nhìn vào các số liệu trên, có thể nhận xét là tỉ lệ tăng dân số cơ học dường như không đạt được như dự báo của đồ án điều chỉnh quy hoạch chung năm 2013. Trong khi đó thì dự báo của quy hoạch chung 2003 lại khá phù hợp. Điều này liên quan đến tình hình phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là phát triển công nghiệp của thành phố trong giai đoạn 20 năm qua. Dường như đã không có một đột phá nào đủ để nâng cao tỷ lệ tăng dân số cơ học cho thành phố. Như vậy, có thể nói là việc kiểm soát phát triển, gia tăng dân số đã không được như mong muốn. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn thảo luận một khía cạnh khác của kiểm soát dân số, đó là kiểm soát mật độ cư trú.

Trong các đồ án quy hoạch chung đều có nội dung quy định về mật độ cư trú cho từng khu vực. Điều này đảm bảo sự phát triển cân đối các khu vực khác của đô thị và đặc biệt là đảm bảo cân đối, hài hòa trong việc cung cấp các dịch vụ, các tiện ích đô thị và hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên, yếu tố này dường như ít được quan tâm kiểm soát không phải chỉ ở Đà Nẵng mà ở hầu khắp các đô thị Việt Nam. Trong bối cảnh xã hội hóa đầu tư phát triển như hiện nay, mật độ cư trú dường như bị cuốn theo mục tiêu của các nhà đầu tư mà tuột khỏi bàn tay kiểm soát của chính quyền đô thị. Đối với thành phố Đà Nẵng, quy hoạch chung 2003 đã đề xuất về việc dãn dân, giảm mật độ dân số tại 2 quận trung tâm là Hải Châu và Thanh Khê. Tuy nhiên từ đó tới nay, mật độ tại 2 quận này không những không giảm mà còn liên tục tăng lên. Hiện tại mật độ dân số tại Hải Châu đã là trên 16.000 người/km2 và Thanh Khê là trên 21.000 người/km2, quá cao so với con số 8.000 người/km2 đã là mất an toàn, mất kiểm soát mà những nghiên cứu về lý thuyết đám đông nêu ra. Nếu tình trạng trên không được quan tâm điều chỉnh và kiểm soát chặt chẽ thì sẽ gây ra những hệ lụy không nhỏ, đó là gây quá tải hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là tình trạng ùn tắc giao thông sẽ càng trầm trọng hơn. Gần đây, tại một số khu vực của Đà Nẵng, điển hình là khu vực ven biển dọc đường Võ Nguyên Giáp (từ Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Thoại) tập trung quá nhiều các khách sạn, condotel làm cho mật độ cư trú tại đây đã tăng lên quá cao, làm quá tải hệ thống hạ tầng kỹ thuật, ảnh hưởng đến đời sống của người dân trong khu vực. Tình trạng này cần được quan tâm, kiểm soát chặt chẽ để tránh những hậu quả xấu hơn có thể xảy ra.

3. Trong kiểm soát sử dụng đất xây dựng đô thị

Ở tham luận trước đây, chúng tôi cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm soát sử dụng đất xây dựng đô thị với một vài số liệu khái quát và đã đưa ra nhận xét là việc kiểm soát sử dụng đất xây dựng đô thị tại thành phố Đà Nẵng chưa được thực hiện một cách chặt chẽ, hiệu quả và đúng định hướng của quy hoạch chung năm 2003 dẫn đến tình trạng cạn kiệt quỹ đất dành cho phát triển đô thị trong giai đoạn tới và trong tương lai. Điều này đã được nhìn nhận và đánh giá trong báo cáo của đoàn giám sát HĐND thành phố cuối năm 2016. Đến nay (2018), theo số liệu nêu ra trong đề cương nghiên cứu quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội thành phố Đà Nẵng thì đất xây dựng đô thị chỉ còn lại trên 600 ha. Vậy đất ở đâu để có thể dung nạp dân số tăng lên ≈ 2,5 lần vào năm 2030 (như tính toán tại điều chỉnh quy hoạch chung năm 2013)? Một câu hỏi lớn! Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, nhiều ý kiến (kể cả các nhà chuyên môn) đã đề cập đến việc chuyển đổi sân bay Chu Lai để thay thế. Theo chúng tôi, chuyển đổi sân bay Đà Nẵng để lấy đất xây dựng, phát triển đô thị có thể nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, không nên tiếp tục thảo luận về việc sử dụng sân bay Chu Lai (thuộc tỉnh Quảng Nam) để thay thế. Cần khẳng định rằng, Đà Nẵng với vị trí địa lý và vai trò đô thị loại I cấp quốc gia, thành phố động lực của cả miền Trung – Tây Nguyên, trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước (và quốc tế), nhất thiết phải có sân bay (và là sân bay quốc tế). Trong trường hợp này, nếu di chuyển sân bay Đà Nẵng thì nên nghiên cứu theo hướng đưa ra vịnh Đà Nẵng nếu các điều kiện về kỹ thuật chuyên ngành cho phép. Và nếu lấn biển thì chỉ nên để phục vụ cho mục đích xây dựng sân bay chứ không nên lấp biển với diện tích hàng nghìn hecta để xây dựng đô thị trên biển như đề xuất gần đây mà chúng tôi mới được nghe qua.

Một thực tế nữa về kiểm soát sử dụng đất chúng tôi muốn đề cập, đó là:

Đất tại các vị trí được định hướng là các trung tâm khu vực trong quy hoạch chung 2003 và không có thay đổi gì lớn trong điều chỉnh quy hoạch chung 2013 đến nay đã không còn nữa. Hầu hết đã được chia lô bán và chủ yếu là theo hình thức nhà phố liền kề diện tích nhỏ. Có chăng là còn một số lô diện tích lớn tại các nút giao thông. Mặc dù trên thực tế còn nhiều đất trống chưa xây dựng nhưng tất cả đều đã có chủ. Đây chính là “kết quả của các quy hoạch chi tiết” đã được lập và phê duyệt đề cập trong mục 1 của bài viết này. Hôm nay, chúng ta thảo luận về “Định hướng quy hoạch và phát triển trung tâm các khu vực đô thị thành phố Đà Nẵng” thì thách thức lớn nhất chính là quỹ đất dành cho mục tiêu này. Gần đây, nhiều ý kiến cho rằng cần tái cấu trúc để chuyển biến Đà Nẵng sang phát triển theo hình thái đô thị nén. Tuy nhiên, nén ở đâu, nén như thế nào còn là vấn đề cần thảo luận. Theo chúng tôi nơi phù hợp để “nén” chính là tại các trung tâm này.

Việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay là nghiên cứu, đề xuất định hướng quy hoạch và phát triển các trung tâm nói trên và sau đó là lập quy hoạch chi tiết cho các khu vực này. Điều này đòi hỏi phải điều chỉnh tất cả các quy hoạch chi tiết liên quan và chuyển đổi hình thức sử dụng đất. Tất nhiên, cái giá phải trả cho việc làm này có lẽ là không nhỏ. Đây không còn thuộc về ý tưởng của các nhà chuyên môn nữa mà thuộc về ý chí của các nhà quản lý, của chính quyền đô thị.

4. Trong việc kiểm soát về không gian kiến trúc, cảnh quan

Nội dung này xin dành để các nhà quy hoạch, các kiến trúc sư thảo luận sâu hơn, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ vài suy nghĩ cá nhân sau:

Một là: Đối với các công trình, các địa chỉ có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, truyền thống, hoặc có giá trị về nghệ thuật, kiến trúc, trong thời gian qua nếu chưa được đánh giá đúng hoặc chưa được ứng xử phù hợp thì nay nên được nhìn nhận lại và quan tâm đầu tư bảo tồn, tôn tạo để giữ lại ký ức cho những người đi xa trở về, giữ lại những dấu ấn cho các thế hệ mai sau.

Hai là: Về công viên trung tâm thành phố

Có thể nói chưa bao giờ chúng tôi hết trăn trở về sự “biến mất” của không gian chức năng vô cùng quan trọng này trong quy hoạch thành phố mà chúng tôi đã có tham gia lựa chọn vị trí, xác định quy mô, đề xuất và đã được chấp thuận, phê duyệt trong quy hoạch chung 2003. Chúng tôi đã hết sức tâm đắc với lựa chọn và đề xuất này, bởi vì đây là vị trí hết sức phù hợp và hài hòa trong tổng thể thành phố với Sơn Trà ở phía Bắc, Ngũ Hành Sơn ở phía Nam. Nếu hình dung thành phố Đà nẵng là một cơ thể người thì đây chính là vị trí của lá phổi. Vậy mà sau khi quy hoạch được duyệt, khu vực này (với diện tích ≈ 300 ha, kể cả mặt nước) ngoài một vài vị trí được dành cho công trình công cộng (trung tâm TDTT, bể bơi thành tích cao, nhà biểu diễn đa năng, thư viện) còn lại dần được chia nhỏ và giao cho các nhà đầu tư tư nhân. Đến nay, dù vẫn còn được một phần đầu tư xây dựng và đặt tên là “công viên” Châu Á. Tuy nhiên, đây là công viên giải trí phải trả tiền mà không phải người dân nào và vào thời gian nào cũng có thể tiếp cận sử dụng. Tiếc thay! Đáng tiếc hơn là không thể tìm đâu được vị trí và diện tích nào thay thế được. Trong khi đó, nhiều ý kiến nhận xét rằng: Đà Nẵng là thành phố không có công viên, chỉ tiêu cây xanh/ người là rất thấp. Vì vậy, theo chúng tôi, cần định hướng (chí ít là trong tầm nhìn đến năm 2050) cần dành lại toàn bộ khu vực này (giới hạn từ đường 2/9 đến bờ sông Hàn và từ đường Nguyễn Văn Trỗi đến đường qua cầu Tuyên Sơn) để xây dựng công viên trung tâm thành phố. Ngoài ra, một số khu đất còn trống (dường như đã có chủ) dọc hai bờ sông Hàn cũng nên chuyển đổi hoặc bằng cách nào đó dành lại để hình thành các không gian xanh góp phần làm cho sông Hàn trở nên mềm mại và hấp dẫn hơn.

5. Trong kiểm soát phát triển hạ tầng kỹ thuật và môi trường

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị bao gồm nhiều chuyên ngành. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trao đổi một vài ý kiến về giao thông đô thị:

– Về giao thông: Trong quá trình nghiên cứu, lập các quy hoạch chi tiết sau khi quy hoạch chung 2003 được duyệt đã không có sự tham gia của chuyên gia về tổ chức giao thông đô thị. Mạng lưới giao thông từ đường chính khu vực đến các đường phố, đường nội bộ đều được xác định một cách chủ quan, thiếu cơ sở. Đặc biệt là không hề có nghiên cứu, đề xuất nào về giao thông công cộng. Chính vì vậy, đến nay việc triển khai thực hiện các dự án về giao thông công cộng gặp không ít khó khăn, trở ngại, tốc độ phát triển loại hình này là quá chậm và một tất yếu không thể tránh khỏi là ùn tắc giao thông. Để đối phó với tình trạng này, thành phố đã và sẽ đầu tư xây dựng các hầm chui tại các nút giao cắt. Giải pháp này, theo chúng tôi chỉ là giải pháp tình thế, không phù hợp về lâu dài và không bền vững. Nguyên nhân chính của tình trạng ùn tắc chính là do phương tiện cá nhân (bao gồm cả ô tô) liên tục gia tăng một cách thiếu kiểm soát và giao thông công cộng là giải pháp tất yếu của các đô thị phát triển. Để đạt tới mục tiêu này, đối với thành phố Đà Nẵng cần thực hiện các giải pháp đồng bộ càng sớm càng tốt với tinh thần khẩn trương và quyết tâm cao độ. Nếu không sẽ muộn!

KS Nguyễn Văn Chung

Check Also

Mot-Goc-Do-Thi-Nui-T

TIÊU CHÍ LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM QUY HOẠCH XÂY DỰNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TỈNH QUẢNG NAM

TIÊU CHÍ LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM QUY HOẠCH XÂY DỰNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN …