Home / VẤN ĐỀ HÔM NAY / THEO DÒNG DOANH NGHIỆP / DOANH NGHIỆP VỚI PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ – THỜI CƠ & THÁCH THỨC

DOANH NGHIỆP VỚI PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ – THỜI CƠ & THÁCH THỨC

IMG_0050(sua)      Đô thị hóa là xu thế tất yếu để phát triển kinh tế – xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Cùng với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, tốc độ đô thị hóa của nước ta cũng ngày càng tăng nhanh, hệ thống đô thị quốc gia được quan tâm đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều đô thị, điểm dân cư nông thôn, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, du lịch, kết cấu hạ tầng… đã được quy hoạch, đầu tư, xây dựng mới, hoặc cải tạo mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của đất nước. Đô thị hóa ở Việt Nam đã góp phần quan trọng trong phát triển chuyển từ quốc gia thu nhập thấp sang thu nhập trung bình. Trong đó, kinh tế đô thị góp khoảng 70% GDP cả nước. Các chỉ số thu ngân sách của các vùng tỉnh và các đô thị lớn cho thấy tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 12% đến 15%, cao gấp 1,2 đến 1,5 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Tuy vậy, đô thị Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu như cạnh tranh đô thị, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng… Đây là những thách thức lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến diện mạo đô thị, điều kiện môi trường sống của người dân và đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững, đặt ra nhiều vấn đề mới trong công tác quy hoạch, xây dựng, đầu tư và quản lý phát triển đô thị hiện nay.

       Đầu tư phát triển đô thị là một xu hướng tất yếu nhằm đánh giá sự tăng trưởng mọi mặt của đô thị, của địa phương trong quá trình phát triển. Sự phát triển của các đô thị, đích đến là phải thể hiện được vị thế trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, khu vực và cả nước. Vì thế, đô thị cần phải thể hiện được tầm ảnh hưởng đối với địa phương và trong khu vực. Đó là một bài toán cần lời giải chính xác và khoa học, sự phối hợp từ các cấp ngành trong công tác đầu tư, quản lý đáp ứng đầy đủ các yếu tố trong quá trình phát triển và hội nhập. Phát triển đô thị là một trong những nội dung quan trọng trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng đô thị. Để đô thị phát triển cần phải có một quy hoạch phù hợp với chất lượng từng giai đoạn. Đồ án quy hoạch phải có tính khả thi, đảm bảo đô thị phát triển theo chiều hướng tích cực, phù hợp với đặc điểm riêng và phát huy được những thành tố bên trong nó. Phát triển đô thị, trước hết phải đảm bảo tính bền vững trong tự thân đô thị. Tính bền vững được thể hiện bởi chất lượng đô thị thông qua các yếu tố về kinh tế – xã hội – môi trường – văn hóa – văn minh đô thị. Ở đó, người dân đô thị được đặt ở vị trí trung tâm. Điều kiện sống, các dịch vụ, tiện ích đô thị là điểm cộng cho chất lượng đô thị nhằm khẳng định sự bền vững. Nhưng đó là điều không dễ dàng, bởi riêng khái niệm về đô thị bền vững rất đa dạng và sự nhìn nhận của con người đối với xã hội là đa chiều. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung, tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng, là điều kiện chủ yếu để tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.

       Những năm qua, Chính phủ và chính quyền địa phương đã ban hành nhiều chính sách, chương trình rất phong phú để khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư phát triển đô thị.

       Chính quyền địa phương thể hiện sự trọng thị đối với các doanh nghiệp thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư tích cực, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tìm hiểu môi trường đầu tư. Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây dựng kế hoạch đầu tư. Quy trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng đã rõ ràng, vừa cải cách thủ tục hành chính để chủ đầu tư dễ thực hiện, nhưng cũng xác định rõ trách nhiệm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý về phát triển đô thị tại địa phương. Trong lĩnh vực tư vấn, xúc tiến đầu tư, những năm gần đây nhiều đô thị có sự chuẩn bị chu đáo để mời gọi doanh nghiệp nước ngoài nói chung và doanh nghiệp nước ta nói riêng. Những nổ lực này cộng với lợi thế của nhiều đô thị về hạ tầng, nguồn nhân lực, cải cách hành chính… đã tạo sự hài lòng và an tâm để doanh nghiệp trong và ngoài nước tăng cường đầu tư. Lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp vừa tập trung sản xuất tạo sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm có giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh lớn, vừa chú trọng vào lĩnh vực phát triển hạ tầng đô thị, thương mại – dịch vụ hiện nay rất phù hợp với chủ trương mời gọi đầu tư, phát triển bền vững của các đô thị. Đồng hành với doanh nghiệp, chính quyền đô thị sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp đầu tư hiệu quả. Nhà nước luôn tăng cường vai trò định hướng đối với thị trường bất động sản, để tập trung nguồn lực phát triển đô thị theo đúng định hướng quy hoạch. Đẩy mạnh xã hội hóa, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực xã hội thông qua các chính sách đổi mới, có tính đột phá trong tổ chức thực hiện tạo được sức hấp dẫn thực sự đối với các nhà đầu tư (đặc biệt nhà đầu tư nước ngoài); Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý ổn định, hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nhà nước. Quyết liệt, đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng tạo các quỹ đất sạch cho các dự án hạ tầng kỹ thuật, gắn trách nhiệm chính quyền cơ sở, các cấp các ngành trong việc bàn giao mặt bằng cho Dự án theo đúng tiến độ yêu cầu. Đẩy mạnh công tác công khai minh bạch các quy hoạch, kế hoạch, danh mục các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật kèm theo các cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư cụ thể nhằm thu hút các nguồn lực xã hội. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, tích cực kêu gọi, khuyến khích xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật. Cho phép nhà đầu tư chủ động lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp đảm bảo các nguyên tắc các bên cũng có lợi nhằm sớm có được sản phẩm công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị đưa vào sử dụng phục vụ đời sống nhân dân. Nhiều đô thị đã xúc tiến đầu tư để giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư với bên ngoài, các cơ quan xúc tiến đầu tư đô thị thường tổ chức đoàn tham quan, khảo sát ở các đô thị mình, tham gia tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, kinh tế ở khu vực và quốc tế. Công tác xúc tiến đầu tư phải được tiến hành đồng bộ với công tác quảng bá hình ảnh đô thị và du lịch đô thị mới có hiệu quả.

       Các cơ quan quản lý nhà nước vẫn đang tiếp tục rà soát, đổi mới cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi để tăng khả năng tiếp cận vốn, khuyến khích đầu tư, nhất là đối với những doanh nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường nhưng đang gặp khó khăn về tài chính; tạo môi trường cho các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm. Cụ thể là, Sở, ban, ngành đã tập trung ra soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này theo hướng cải cách thủ tục hành chính. Nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư để huy động nhiều hơn nữa các nguồn lực dành cho hạ tầng đô thị và thu hút đầu tư theo cơ chế “một cửa điện tử” trên mọi lĩnh vực. Cơ chế một cửa liên thông là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của một cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, thời gian gần đây việc xây dựng, ban hành thể chế đã có nhiều cải tiến như tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các bộ, ngành, đoàn thể, kể cả cơ quan báo chí và nhân dân. Các đô thị đã nghiên cứu, xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển trung, dài hạn, ưu tiên cho những công trình trọng điểm; có cơ chế phân cấp đầu tư và nâng cao năng lực quản lý đầu tư theo hướng người quyết định đầu tư phải cân đối khả năng bố trí vốn trước khi phê duyệt dự án, chịu trách nhiệm quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu và chất lượng, hiệu quả của dự án.

       Chính sách hỗ trợ đầu tư: là các hoạt động cần thiết và tiếp theo các bước trên. Đây là những hoạt động giúp cho doanh nghiệp đầu tư triển khai dự án sau khi đã quyết định đầu tư. Các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ dành cho vốn đầu tư trước hết phải đảm bảo cho các doanh nghiệp đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước; đồng thời nó còn khuyến khích họ đầu tư và nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Tạo điều kiện giãn thuế để doanh nghiệp có vốn quay vòng. Bố trí nguồn vốn ngân sách để đầu tư đối ứng cho các dự án PPP kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn đối với một số dự án hạ tầng kinh tế – xã hội có quy mô lớn, có tính lan tỏa cao và tác động tích cực đến sự phát triển chung của đất nước. đổi mới chế độ quy định cho doanh nghiệp lập báo cáo thuế, báo cáo tài chính theo hướng minh bạch, đơn giản, tiết kiệm thời gian và chi phí của doanh nghiệp, như: nộp qua đường bưu điện, hoặc internet có mã tài khoản. Tổ chức triển khai tốt và nghiêm túc quy chế giải quyết các yêu cầu, thủ tục hành chính cho người nộp thuế theo “cơ chế một cửa” để thuận lợi cho người nộp thuế.

       Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều vướng mắc nảy sinh. Đó là, trong cơ chế quản lý những năm qua, rất nhiều quy định sửa đổi, bổ sung. Nhiều điểm sửa đổi giúp cho việc hoàn thiện chặt chẽ quy chế hơn nhưng lại gây khó cho doanh nghiệp, vừa thực hiện xong bộ hồ sơ lại phải tiếp tục thay bộ hồ sơ khác vì có một văn bản khác ra đời. Điều này đã làm chậm quá trình thực hiện, chậm quá trình giải ngân. Nếu là cơ chế phải có tính dài hơi, vì vậy, cần có sự chuẩn bị thấu đáo trong quá trình xây dựng cơ chế. Một vấn đề gây ra tình trạng quản lý đầu tư kém hiệu quả là chất lượng quy hoạch và thiếu công khai minh bạch thông tin ở một số dự án. Việc quản lý đầu tư theo quy hoạch hiện rất khó. Quy hoạch của Chính phủ cho phép các bộ ngành, địa phương tự phê duyệt. Như vậy, người có đủ thẩm quyền phê duyệt cũng có đủ thẩm quyền quy hoạch gây ra những bất ổn… Hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và trong một số lĩnh vực chưa bám sát quá trình chuyển đổi khó khăn và phức tạp. Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ một số Luật, Pháp lệnh đã ban hành nhưng các Nghi định và Thông tư hướng dẫn triển khai chậm được ban hành. Sự thiếu nhất quán trong hệ thống thể chế biểu hiện rõ ràng trong việc chậm chuẩn bị và ban hành các văn bản dưới Luật, Pháp lệnh để hướng dẫn thi hành. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu hướng giữ thuận lợi cho hoạt động quản lý của mình nhiều hơn đáp ứng nhu cầu tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân.

       Bên cạnh đó có một thực tế là cho đến nay Nhà nước ta vẫn chưa có cách nào khắc phục được tính cục bộ từng ngành, từng lĩnh vực trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tục hành chính vẫn chưa được cải cách đơn giản hóa triệt để, tính công khai còn thấp. Sau một thời gian có những kết quả bước đầu trong cải cách thủ tục hành chính, thời gian gần đây vẫn còn một số thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà cho dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa và một cửa liên thông ở nhiều nơi chưa phát huy được hiệu quả và chưa thống nhất, ví dụ như “Một cửa” mà vẫn nhiều thủ tục là tình trạng vẫn còn xảy ra tại một số cơ quan hành chính, nơi mà “Một cửa” còn mang tính hình thức. Chưa có được các cơ chế chính sách mang tính đặc thù, ưu tiên, đột phá trong lĩnh vực đầu tư công trình hạ tầng kỹ thuật; cơ chế chính sách chưa tạo được sự hấp dẫn, thu hút nguồn lực của xã hội; Về thủ tục hành chính trong công tác đầu tư xây dựng chồng chéo, cứng nhắc dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức thực hiện.

       Đã có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cần hỗ trợ pháp lý để có thể tiếp tục thực hiện dự án, vì khi làm thủ tục thuê đất, đại diện doanh nghiệp này cho biết, việc phải đóng khoản tiền thuê đất một lần quá lớn, trong khi còn phải thực hiện đầu tư nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc…, đã khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Cùng với doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong nước cũng gặp khó khăn về vấn đề này. Mới đây, một doanh nghiệp tại TP. HCM thuê đất tại khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã bị ngân hàng từ chối cho vay vốn để đầu tư nhà máy sản xuất hàng nông sản. Theo doanh nghiệp này, ngân hàng từ chối cho vay vốn, bởi theo Luật Đất đai 2013, hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp thiếu tờ xác nhận của đơn vị kinh doanh hạ tầng KCN do doanh nghiệp chưa thực hiện nộp tiền thuê đất một lần.

       Như vậy, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng phải đóng tiền thuê đất một lần đối với phần diện tích đã cho thuê và phần diện tích sắp cho thuê – nếu muốn thu tiền thuê đất một lần của khách hàng là không hợp lý, vì có thể hiểu, chỉ khi doanh nghiệp hạ tầng đóng tiền thuê đất một lần thì các nhà đầu tư thứ cấp mới được thuê lại với hình thức trả tiền thuê đất một lần và được cấp sổ đỏ. Nếu thực hiện như vậy, sẽ hóa giải được khó khăn của nhà đầu tư thứ cấp khi thế chấp sổ đỏ vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, việc đóng tiền một lần đối với đa số chủ đầu tư hiện nay là rất khó, thậm chí là áp lực quá lớn, bởi chi phí đó quá lớn. Mức phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng đang là vấn đề khiến các doanh nghiệp “đứng ngồi không yên”. Cụ thể là khung giá đất mới cao hơn gấp 2-3 lần khung giá đất áp dụng từ năm 2009 đến nay, cho dù chưa tính tới áp dụng khung giá này để tính tiền sử dụng đất, mà chỉ áp vào để tính thuế, phí, xử phạt vi phạm đất đai… cũng đã thêm một gánh quá nặng cho hầu hết doanh nghiệp.

       Chính sách thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phạm và cắt giảm đầu tư công đã ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính. Do thiếu vốn, vốn tự có của doanh nghiệp thấp, những bất cập trong việc tái cơ cấu nguồn vốn (thoái vốn, cơ cấu các khoản vốn vay ngắn hạn, cơ cấu nợ…) và việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng cũng như huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân gặp khó khăn càng gia tăng mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp ngành xây dựng. Mặc dù lãi suất vay vốn tín dụng gần đây đã được điều chỉnh giảm, nhưng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng do không đủ điều kiện pháp lý để vay vốn; giá đầu vào của nhiều loại vật tư, nguyên liệu tăng, trong khi giá bán sản phẩm không tăng, hoặc tăng ít làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn đến hàng tồn kho nhiều. Một số doanh nghiệp phải rơi vào tình trạng phá sản hoặc nợ nần. nhiều dự án không thể triển khai và nguy cơ bị dừng lại do thời hạn giấy phép đầu tư sắp hết. Bộ Giao thông Vận tải đã cấp phép dự án nhưng đến khâu giải ngân vốn đối ứng bị vướng lại do chưa có cơ chế, cơ quan triển khai do phía Nhà nước chưa biết bố trí 20% vốn đối ứng vào lĩnh vực nào. Một trong những khó khăn được nhà đầu tư chỉ ra là Nhà nước mong muốn dự án có giá trị đầu tư lớn, thời gian thu phí trên dưới 20 năm, trong khi ngân hàng chỉ chấp nhận các dự án có thời gian thu phí dưới 15 năm.

       Trước những thời cơ và thách thức như vậy, không thể phủ nhận lợi ích to lớn mà các hoạt độngcủa doanh nghiệp đã mang lại, đó là tạo nguồn thu chính cho ngân sách của đô thị, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo môi trường sống tốt hơn cho người dân, góp phần vào công cuộc phát triển đô thị hiện đại, đầy bản sắc và tạo vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế. Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan, ban ngành địa phương cần tiếp tục đề xuất các cơ chế, chính sách sao cho tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào phát triển đô thị.

KTS TRẦN NGỌC CHÍNH

ĐT&PT SỐ 61/2016

Tài liệu tham khảo:

        

  1. KTS Trương Văn Quảng, “Phát triển đô thị và một số vấn đề cần trao đổi…”, Hội thảo khoa học (2013).
  2. Đình Dân, “Mất cơ hội vì cơ chế”, Báo tuổi trẻ online (16/03/2015).
  3. Phan Trang, “Dự án giao thông phải hấp dẫn đầu tư”, Báo vn (12/12/2014).
  4. Bảo Anh, “Bất động sản khó khăn có “lỗi” của chính sách”, Báo VnEconomy (09/04/2013).
  5. Lê Hường, “Quản lý hiệu quả đầu tư từ ngân sách”, Báo
  6. La Hoàn, “Bí quyết thu hút FDI của một số nước châu á và bài học cho Việt Nam”, Trung tâm thông tin và dự báo kih tế – xã hội quốc gia.

Check Also

ggnn

Đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo đô thị

Sự phân hoá giàu nghèo có thể nhận thấy rõ nét giữa thành thị và …