Home / VĂN HÓA-DU LỊCH / Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thơ

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thơ

“Trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê.” (Hoài Thanh)

Giữa các lĩnh vực văn học – nghệ thuật, thơ là tấm gương soi tỏ nhất bộ mặt văn hóa dân tộc. Bởi Nàng thơ đã sử dụng rất hiệu quả và cực vi diệu phương tiện số một của văn hóa, đó là ngôn ngữ – cầu giao lưu con người với con người.

Chính thế Octavio Paz, nhà thơ giải Nobel người Mexico, đã khẳng định: “Đặc điểm xương tủy của thơ là tính chất xã hội: thơ tái thiết nền móng cho cuộc sống chung giữa con người.”

Việt Nam lại là đất nước thi ca, như thi sĩ Nguyễn Bính từng viết: “Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ”. Đúng vậy, so với các ngôn ngữ khác, tiếng Việt có khá nhiều thanh điệu (6 thanh điệu), như đôi cánh nâng thi ca tung bay đến chân trời của tâm hồn.

Vui xuân, chúng ta thêm một lần tìm về tư chất và tâm tính của chính mình qua các vần thơ Việt xưa và nay…

kieu

Từ bao đời nay Truyện Kiều trở thành cẩm nang trong đời sống tinh thần người Việt. “Đã đem nhau đến cửa công/ Ngoài thì là lý nhưng trong là tình”. Đại thi hào Nguyễn Du đã thơ hóa đạo lý ứng xử ở xã hội Việt Nam thời xưa. Người mình bây giờ tuy lý tính hơn các cụ rất nhiều, song cái tình vẫn nhẩn nha ra vào chốn công đường, trong việc chung… Tình nghĩa Việt có nguồn là tình làng nghĩa xóm, tình thân, nghĩa láng giềng với cuộc sống nông nghiệp lạc hậu xa xưa. Đã từ lâu, ở xứ Âu trời Mỹ luật là luật, pháp là pháp. Khi cái lý cầm chịch, nó khiến xã hội công nghiệp phát triển theo quy luật phổ quát. Dù sao mặc lòng, lối sống nặng về tình nghĩa vẫn được mặc định là nét son trong bản sắc dân tộc Việt, ngay cả khi đất nước đang bước sâu vào thời Cách mạng công nghiệp 4.0. Thế hệ trẻ bây giờ đã biết dung hòa “bên tình bên lý bên nào nặng hơn” trong các việc chung điều riêng. Quan niệm về nhân ái xác định rõ bản sắc của một dân tộc.

Vì thế, sự tinh tế trong ứng xử là điều dân Việt coi trọng. Không chỉ tinh tế trong đại sự, mà cả trong tiểu tiết: “Dịu dàng như thể tay tiên/ Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường”. Thưa, đó là dáng vẻ đi đứng của con gái nhà lành thời chàng Nguyễn Bính đang nổi như cồn vì sự đam mê thơ truyền thống trong khi say đắm người đẹp tân thời. “Mép áo” chiếc áo cánh, có thể chẳng bị cơn gió bạo nào, nhưng “tay tiên” vẫn thả nhẹ xuống ra vẻ “giữ hờ” khi người đẹp băng qua đường trước bao ánh mắt người lạ. Làm duyên là một nét độc đáo và ấn tượng trong sinh hoạt thường nhật của người phụ nữ Việt Nam. Với người Việt, đẹp xấu chưa biết, trước hết phải duyên.

Dân mình còn chú trọng sự bao dung, khoan hồng… Về mặt này văn hóa Việt Nam khác hẳn tư tưởng hủ nho cực đoan phong kiến Trung Quốc. Nguyễn Du thẩm thấu điều đó và thể hiện qua những khúc quanh của cuộc đời Kiều. Đó khi nàng bị trách “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” trước mồ hiu quạnh “Sè sè nấm đất bên đàng” của kỹ nữ hèn kém như Đạm Tiên. Đó là khi nàng được quyền xử những kẻ gây oán, như Hoạn Thư, Sở Khanh, Tú Bà… Khoan dung trong răn đe. Tức là có tình có lý.

Tính cách giản dị (và có phần xuề xòa), suy tư trong sáng, nồng nhiệt (và đôi khi thiết thực) trong lối sống và cả trong tình ái, đó cũng là nhân tính Việt. “Không cần gặp Thiên Tào/ Đòi một đời hạnh phúc/ Chỉ cần cùng nhau khóc/ Một giờ trong cao lầu”. Ai là văn tài xuống bút ở những câu chữ lịm người đó? Chế Lan Viên. Về thi cảnh nào vậy? Một chuyện tình nghiệt ngã, thương nhau mà đến với nhau không đặng. Thi nhân – triết gia Nguyên Sa còn thành thục Tây hóa tam đoạn luận theo lối nghĩ Việt: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông/ [Cho nên] Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng”. Rất dễ thương và không dễ bắt bẻ.

Tình Việt lạ lắm! Có những gam trầm nhân văn đến quặn thắt. Ấy là khi nghĩ về người đã khất. Dưới đây là một vài diễn ngôn thơ của câu nói nơi cửa miệng dân mình: Nghĩa tử là nghĩa tận.

Toàn bộ một bài thơ nổi tiếng của thời hậu chiến: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi hòa sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Chẳng là nhà thơ chuyên nghiệp, người lính năm xưa Lê Bá Dương – trong buổi thả hoa tưởng niệm những đồng đội bị mất tích dưới sông trong trận chiến khốc liệt thành cổ Quảng Trị – bèn ứng khẩu các lời thơ mộc mạc mà thê thiết. Đến năm 2007, bài thơ Đò lên Thạch Hãn đã được một quân nhân thời bình, giảng viên Học viên quân y Trần Bắc Hải phổ nhạc khiến lòng nhân ái, tình đồng đội Việt càng được lan tỏa. Người nhạc sĩ nghiệp dư họ Trần kể lại: “Đọc 4 câu thơ mà tôi sởn gai ốc.” Bậc thánh thi Trung Hoa là Đỗ Phủ từng ray rứt “Thơ chưa làm kinh động lòng người, chết chưa yên” là vậy.

Mới tuần trước, trong sổ tay thơ của mình, người viết lại có thêm đôi vần thơ mang hồn vía Việt như thế, cũng từ một nhà thơ của hôm nay – Phạm Xuân Trường: “Nào em hãy nhẹ bước thôi/ Đừng giẫm lên cỏ cho người dưới đau.”

Với cả cuộc đời sôi động trong và ngoài nước, Du Tử Lê là thi sĩ “toàn tòng”. Cho nên nỗi hoài hương của ông bao trùm lên tất cả: “Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè/ Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do/ Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè/ Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường”.

Dân tộc Việt Nam có tín ngưỡng mà không tôn giáo nào được xem là độc tôn. Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng. Khi kỳ nhân “Sơn núi”/Nguyễn Đức Sơn viết: “Tôi về lắng cả buổi chiều/ Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh”, nếu gặng hỏi “kinh” nào vậy thưa thi nhân, dám sẽ nhận về lời đáp gọn lỏn: kinh Việt!

Đến người thơ Hồ Dzếnh. Bạn đọc đâu cần biết thi sĩ theo đạo nào hoặc vô thần, chỉ nhớ 2 tứ thơ giàu nhân ái và đặc Việt tính của một người con gốc Hoa: “Chân đi đếm tiếng chuông chùa/ Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về”, “Đêm Giáng sinh này em ở đâu/ Nghe chuông có nhớ thuở ban đầu”.

Qua hàng ngàn năm, cộng đồng Việt Nam hình thành và phát triển từ liên kết của 4 thành phần cá nhân – gia đình – làng xóm – tổ quốc. Lật bất cứ tập thơ của một tác giả Việt Nam nào đó không nệ có tên tuổi hay chưa, ta đều gặp bản sắc văn hóa quan trọng này.

Đồng Đức Bốn ghi danh vào làng thơ Việt đương đại từ những lời thống thiết tình mẫu tử – phụ tử ở đề tài không dễ viết, lại cũng về phần mộ của người nằm xuống: “Ối mẹ ơi vỡ đê rồi/ Mộ cha liệu có lên trời được không?”. Còn thiền sư – thi sĩ Tuệ Sỹ đã khắc họa tình bằng hữu: “Khi về anh nhớ cài quai nón/ Mưa lạnh đèo cao không cõi người”.

Nghĩa láng giềng luôn là điều canh cánh bên lòng người Việt, sau tình gia đình. Vẫn là Nguyễn Bính: “Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”. Thi nhân chân quê sẽ sống mãi trong tâm hồn Việt, dù xã hội Việt Nam đô thị hóa cỡ nào, dù người Việt rời xa quê cũ tới chân trời góc biển nào. Vì ông đã rải các hàng thơ xuống mọi cung bậc của người-nhà-quê ẩn hiện trong mỗi con dân Việt: “Thầy ơi! Đừng bán vườn chè/ Mẹ ơi! Đừng chặt cây lê con trồng”. Và không thể nào quên câu-thơ-bảng-hiệu made by Nguyễn Bính: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”.

Nằm trong tình yêu đất nước nồng nàn, tình cảm với quê hương bản quán được xem như chỉ số đầu tiên của căn cước người Việt Nam. Mới nghe như ngô nghê, câu thơ thần thái của trung niên thi sĩ Bùi Giáng “Hỏi rằng: người ở quê đâu?/ Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà” luôn vang vọng cùng tiếng Việt, cùng người Việt…

***

Bạn thấy không, chân dung văn hóa người Việt là do các nhà thơ tạo tạc.

Từ bên Tây phương triết gia hiện sinh người Đức Martin Heidegger cũng từng thi vị hóa điều đó ở mức độ khác: “Những gì còn ở trên đời/ Đều tưng bừng nở trong lời thi nhân” (Nguyễn Quỳnh dịch).

Đỗ Quyên

Vancouver – Xuân Canh Tý 2020

(Đô thị & Phát triển số 80-81/2020)

Check Also

THUNG LŨNG YARRA (1)

TRỞ LẠI AUSTRALIA

TRỞ LẠI AUSTRALIA Mùa lá đỏ ở thung lũng Yarra Australia cuối thu. Đúng 8 …