Quy hoạch đô thị, vốn là một công cụ để quản lý và định hướng sự phát triển của thành phố, cũng đứng trước những thách thức phải thay đổi và tái cấu trúc, nhằm thích ứng với nền kinh tế thị trường vận động không ngừng. Để hiểu rõ những vấn đề mà quy hoạch đô thị đang gặp phải trong thực tiễn, bài viết sẽ phân tích tác động của quá trình toàn cầu hoá, thị trường hoá và phân cấp hoá đối với những cải cách kinh tế – thể chế và những tác động của bối cảnh chuyển đổi lên hệ thống quy hoạch đô thị. Từ đó, nhận diện những thách thức mà quy hoạch đương đại của Việt Nam đã và đang phải đối diện trong nền kinh tế thị trường.
QUY HOẠCH ĐÔ THỊTRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Đặt vấn đề
Từ sau dấu mốc cải cách kinh tế – thể chế năm 1986, Việt Nam bước vàogiai đoạn hơn 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Cùng với đó là sự mở rộng không gian và biến đổi diện mạo đô thị nhanh chóng tại các thành phố lớn. Quy hoạch đô thị, vốn là một công cụ để quản lý và định hướng sự phát triển của thành phố, cũng đứng trước những thách thức phải thay đổi và tái cấu trúc, nhằm thích ứng với nền kinh tế thị trường vận động không ngừng. Đã có những quan điểm cho rằng hệ thống và phương pháp quy hoạch đô thị của Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế và bị động trước diễn tiến của thị trường [1], hoặc, quy hoạch đô thị đang đi sau thực tiễn phát triển [2].
Để hiểu rõ căn nguyên vấn đề mà quy hoạch đô thị đang gặp phải trong thực tiễn, trước tiên, cần làm rõ những đặc tính của bối cảnh kinh tế chuyển đổi tại Việt Nam cùng với những tác động của nó lên cơ chế phát triển đô thị. Từ góc độ kinh tế vĩ mô, bài viết phân tích tác động của quá trình toàn cầu hoá, thị trường hoá và phân cấp hoá đối với những cải cách kinh tế -thể chế và những tác động của bối cảnh chuyển đổi lên hệ thống quy hoạch đô thị trong những năm qua. Từ đó, nhận diện những thách thức mà quy hoạch đương đại của Việt Nam đã và đang phải đối diện trong nền kinh tế thị trường.
1.Chuyển đổi trong kinh tế và cơ chế phát triển đô thị
Đặc trưng của nền kinh tế – thể chế chuyển đổi tại Việt Nam là một quá trình cải cách dần dần (Gradualism), chủ yếu diễn ra trong cơ cấu kinh tế và cải tổ hệ thống quản lý hành chính, dựa trên nền tảng ổn định về chính trị và xã hội. Đường lối cải cách dần dần này mang đến những hiệu quả và thành công nhất định so với biện pháp cải cách mang tính đột biến (Shock therapy), được áp dụng tại nhiều nước Đông Âu sau thời kỳ Liên Xô tan rã. Bắt đầu từ những cải cách về thể chế,cơ chế thị trường từng bước được du nhập, cùng với đó là sự nới lỏng kiểm soát đối với khối kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân có thể phát triển song song cùng khu vực công, mang đến sự đa dạng và hình thành sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Cùng với sự mở cửa và phát triển của thị trường, dòng vốn đầu tư, hàng hoá và doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam với chiến lược thúc đẩy xuất khẩu, nhanh chóng gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá, các thành phố và đô thị từng bước tham gia vào hệ thống phân công chức năng của kinh tế khu vực, cũng như kinh tế toàn cầu.
Dưới tác động của quá trình thị trường hoá và toàn cầu hoá, kinh tế địa phương trở thành điểm đến của dòng vốn đầu tư. Các doanh nghiệp địa phương doanh nghiệp nước ngoài cũng như cư dân đô thị là động lực thúc đẩy sự phát triển, xây dựng theo cơ chế “từ dưới lên” (Bottom-up). Đô thị ngày càng phát huy vai trò tự chủ kinh tế, gia tăng kết nối mạng lưới và giảm bớt lệ thuộc từ trợ cấp trung ương. Điều đó thúc đẩy tiến trình phân cấp hoá như một xu thế cần thiết, gia tăng quyền quản lý hành chính và tài chính cho cấp địa phương nhằm phát huy khả năng quản lý đô thị và ứng phó trước những diễn tiến của kinh tế thị trường.
Nhìn chung, thị trường hoá (Marketization), toàn cầu hoá (Globalization), và phân cấp hoá (Decentralization) là ba phương diện tất yếu, tương hỗ và không thể tách rời của nền kinh tế chuyển đổi tại Việt Nam. Cùng nhau, ba quá trình này đã có những tác động mạnh mẽ và đồng thời lên cơ chế phát triển đô thị, kéo theo đó là những thay đổi bắt buộc trong hệ thống quy hoạch.
(1) Thị trường hoá (Marketization):
Quá trình cải cách kinh tế – thể chế từ năm 1986 còn gọi là “Đổi mới” đánh dấu bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thịtrường. Một mặt, chính quyền dần mở cửa nền kinh tế, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân và thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, từng bước tiến hành cải cách hệ thống pháp luật và chính sách, nhằm thúc đẩy sựvận động của thị trường.
Đối với sự phát triển không gian đô thị, cải cách thể chế quan trọng nhất là gắn liền với lĩnh vực đất đai và nhà ở. Cùng với sự ban hành luật đất đai và luật nhà ở, quyền sử dụng đất của người dân đã được hợp thức hoá. Quyền sử dụng đất được gắn với những quyền lợi như những dạng tài sản khác, như quyền giao dịch, thừa kế, trao tặng… Từ một loại tài sản chỉ được định giá bởi giá trị sử dụng đơn thuần (Use-value), hoặc như một dạng tư liệu sản xuất, giá trị giao dịch của đất đai (Exchange value) đã được đánh thức. Đất đai và không gian đô thị trở thành một dạng tài sản sinh lợi nhuận và được phép giao dịch như các loại thương phẩm khác. Quá trình này còn được gọi là sự thương phẩm hoá đất đai (Land commondification). Trao đổi và giao dịch đất đai và nhà ở tạo ra giá trị thặng dư, do vậy, thu hút nguồn vốn và trở thành kênh đầu tư quan trọng, kích thích sự phát triển của không gian đô thị.
Sự hình thành của thị trường bất động sản song hành với sự thay đổi toàn diện trong cơ chế phát triển không gian. Chính quyền không còn là chủ thể độc quyền trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng và cung ứng nhà ở như thời kỳ kế hoạch tập trung. Thay vào đó, thị trường bất động sản trở thành sân chơi đa thành phần, bao gồm: chính quyền, các nhà xây dựng phát triển trong ngoài nước và cả cư dân đô thị.
(2) Toàn cầu hoá (Globalization):
Việt Nam chính thức gia nhập WTO từ năm 2007, song trên thực tế, quá trình toàn cầu hoá đã bắt đầu từ những năm 90, dù vậy, sự mở cửa của nền kinh tế với vốn đầu tư nước ngoài trong thời kỳ này diễn ra khá chậm. Việt Nam ápdụng phương thức tiếp cận thận trọng đối với dòng vốn ngoại quốc, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển đất đai và đô thị. Tuy vậy, những năm gần đây Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế trong đó bao gồm đầu tư hạ tầng, phát triển công nghiệp và nhà ở. Sự phát triển và mở rộng đô thị cũng mang đến nguồn tài chính đất đai dồi dào cho địa phương, một mặt thúc đẩy kinh tế phát triển, mang lại việc làm cho lao động, mặt khác giúp địa phương hoàn thiện cơ sở hạ tầng và cung ứng các tiện ích công cộng.
Đáng chú ý là sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp, ngay cả các địa phương cũng tham gia vào cạnh tranh, nhằm thu hút vốn đầu tư vào địa bàn quản lý. Xây dựng chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) được xem là nỗ lực của nhà nước, nhằm thiết lập trật tự và định hướng sự cạnh tranh ở cấp địa phương theo lộ trình bền vững. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế địa phương đã trở thành mục tiêu và đích đến trọng, trong đó, các chính sách ưu đãi về cơ chế đất đai, thuế thu nhập là phương thức mà nhiều địa phương đã áp dụng, nhằm tăng cường lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư (2.3.4). Quá trình toàn cầu hoá và thị trường hoá đã thúc đẩy địa phương tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu; trong khi đó, quá trình phân cấp hoá gia tăng quyền quản lý đối với tài nguyên đất đai và quy hoạch tại cấp địa phương.
(3) Phân cấp hoá (Decentralization):
Quá trình thị trường hoá kích thích sự phát triển của khối tư nhân và kinh tế địa phương. Do vậy, vai trò của chính quyền các cấp trong việc quản lý tài nguyên và các hoạt động kinh tế trong phạm vi hành chính của họ trở nên vô cùng quan trọng. Phân cấp hoá, thực chất là việc chuyển giao những quyền quản lý vốn tập trung ở khối trung ương xuống chính quyền cấp dưới, nhằm thích ứng với sự năng động của nền kinh tế thị trường.
Quá trình phân cấp hoá bao gồm phân cấp tài chính (Fiscal decentralisation), và phân cấp quản lý (Administrative Decentralisation). Luật ngân sách nhà nước được ban hành năm 2002 và điều chỉnh năm 2010, thiết lập cơ chế phân chia ngân sách giữa trung ương và địa phương. Chính quyền cấp tỉnh nhận được nhiều quyền lợi và sự chủ động trong thu-chi ngân sách, trong đó được quyền sắp xếp tài chính cho cấp chính quyền cấp thấp hơn như quận, huyện. Tuy được tự chủ hơn trong việc thu ngân sách, mỗi địa phương cũng đối diện với áp lực từ trách nhiệm chi ngân sách cho đầu tư phát triển hạ tầng và cung ứng dịch vụ công cộng.
Bên cạnh đó, quá trình phân cấp quản lý cũng diễn ra song song với phân cấp hành chính. Quyền quản lý tài nguyên được chuyển giao dần dần từ trung ương về địa phương, phân theo phạm vi và cấp bậc hành chính, được hệ thống hoá từ trên xuống (Top-down system). Luật đất đai cho phép chính quyền cấp tỉnh được phép định giá đất, lập kế hoạch sử dụng đất, giao và thu hồi đất. Bên cạnh đó, phần lớn nguồn thu từ đất đai cũng được phân bổ về ngân sách địa phương.
Như vậy, quá trình thị trường hoá, toàn cầu hoá và phân quyền hoá luôn diễn ra song song và tương hỗ như một hệ vận động không ngừng, phản ánh mối hệ giữa toàn cầu và địa phương, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong bối cảnh chuyển đổi của nền kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, có thể nhận thấy sự thay đổi trong giá trị của không gian đô thị, dẫn đến sự hình thành của thị trường bất động sản. Thị trường bất động sản tại Việt Nam ngày nay đã trở thành sân chơi của nhiều chủ thể khác nhau: như các doanh nghiệp trong và ngoài nước đóng vai trò phát triển, chính quyền và nhà quy hoạch đóng vai trò hoạch định đầu tư công và quản lý. Cư dân đô thị cũng tham gia vào quá trình xây dựng, tự quản và giao dịch. Trong bối cảnh đó, quy hoạch đô thị đã thay đổi và tái cấu trúc ra sao? Nhữngthách thức đã và sẽ gặp phải là gì? Phần tiếp theo của bài viết sẽ phân tích sâu hơn về vấn đề này.
2.Quy hoạch đô thị trong bối cảnh chuyển đổi
(1) Quy hoạch đô thị thời kỳ kinh tế kế hoạch:
Trước thời kì đổi mới, hoạt động kinh tế tư nhân bị hạn chế bởi rào cản thể chế, các dự án xây dựng phát triển đô thị phần lớn được thực hiện bởi khối nhà nước, quy hoạch đô thị đóng vai trò là công cụ kỹ thuật phục vụ cho các kế hoạch và chương trình phát triển của nhà nước và các ban ngành. Hệ thống quy hoạch bao gồm kế hoạch kinh tế – xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch không gian, nhấn mạnh vai trò của trung ương trong việc lập kế hoạch và phân bổ nguồn lực tài nguyên. Trong giai đoạn này, vai trò của cấp địa phương trong công tác quy hoạch còn hạn chế, khi các phương án và quyết định đầu tư xây dựng đã được hoạch định ở cấp trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, chính quyền trung ương nắm giữ hầu hết nguồn lực tài nguyên và kinh tế, vừa đóng vai trò là người lập kế hoạch, vừa là chủ đầu tư xây dựng nhằm thực thi bản kế hoạch đó. Do vậy, các đồ án quy hoạch thường chỉ có vai trò cụ thể hóa các dự án phát triển đô thị nằm trong chủ trương đầu tư của chính phủ. Nội dung quy hoạch bao gồm chuẩn bị quỹ đất cho các dự án của nhà nước, tổ chức mạng lưới giao thông kết nối các cơ sở kinh tế, lựa chọn địa điểm để xây dựng các khu công nghiệp và đơn vị ở. Quy hoạch đô thị trong thời kì này được coi như một công cụ để phân phối nguồn lực và tài nguyên, nhằm thực thi các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và hiện thực mục tiêu công nghiệp hoá, hơn là giải quyết các vấn đề phát triển không gian và xã hội[1].
Đứng trên khía cạnh kinh tế, do thị trường giao dịch đất đai chưa hình thành, quá trình xây dựng và phát triển bị chi phối chủ yếu bởi khối nhà nước,quy hoạch trong giai đoạn này hoàn toàn mang tính chất kỹ thuật, thông qua phương pháp bản đồ để hoạch định xây dựng. Quy hoạch trong thời kỳ này chưa vấp phải sự kháng cự của các chủ thể lợi ích trong quá trình phát triển. Một bản quy hoạch có được thực thi hay không, phụ thuộc chủ yếu vào năng lực tài chính của chính quyền. Do chưa phải đối diện với những vấn đề lợi ích phát triển do thị trường đất đai mang lại, tương tự với nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa đương thời, giai đoạn này Việt Nam chưa xuất bản hệ thống pháp luật chính thức về quy hoạch.
(2) Quy hoạch đô thị trong nền kinh tế thị trường:
Từ sau đổi mới, cùng với sự thiết lập nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, hệ thống pháp lý liên quan trực tiếp đến không gian đô thị như luật đất đai, luật nhà ở, luật xây dựng, luật kinh doanh bất động sản, luật quy hoạch đô thị đã được ban hành và từng bước sửa đổi, hoàn thiện. Sở dĩ hệ thống pháp lý là tối quan trọng trong nền kinh tế thị trường, bởi lẽ, pháp luật là công cụ tài phán quan trọng, quy định quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể lợi ích cùng tham gia trong một lĩnh vực phát triển cụ thể. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị thặng dư từ quá trình phát triển và giao dịch không gian đô thị được hợp thức hoá bởi hệ thống pháp lý, hình thành nên thị trường bất động sản, cùng với đó là thị trường vốn, lao động và vật liệu.
Cùng với sự tham gia của khối doanh nghiệp-tư nhân trong lĩnh vực xây dựng nhà ở, và cung ứng dịch vụ công (hạ tầng, y tế, giáo dục..), vai trò của chính quyền trung ương đã tập trung hơn vào các dự án đầu tư hạ tầng quốc gia, còn chính quyền địa phương là chủ thể chính hoạch định chiến lược và quản lý phát triển tại địa phương. Mô hình phát triển đô thị quá độ từ: chính quyền quy hoạch, chính quyền đầu tư xây dựng, trở thành, chính quyền quy hoạch – tư nhân đầu tư xây dựng. Việc đa dạng hoá nguồn lực tham gia vàocông cuộc xây dựng và phát triển khiến vị thế quyết định của nhà nước trong việc thực thi quy hoạch đã không còn là chủ đạo. Bởi lẽ nguồn lực của kinh tế tư nhân giờ đây đóng vai trò chủ chốt trong việc hiện thực hoá tầm nhìn phát triển, chính quyền chỉ thể hiện vai trò dẫn dắt thông qua chính sách và đầu tư hạ tầng cơ sở. Do vậy, khác với quy hoạch đô thị trong nền kinh tế kế hoạch, sự thành bại của bản đồ quy hoạch trong nền kinh tế thị trường nằm ở việc có thành công định hướng và thu hút được nguồn lực thị trường để phát triển đô thị hay không.
Dấu ấn của quá trình toàn cầu hoá phản ánh rõ nét trong công tác lập đồ án quy hoạch, các tập đoàn tư vấn danh tiếng thế giới đã hiện diện tại thị trường tư vấn thiết kế Việt Nam những năm gần đây, song hành cùng chính phủ và doanh nghiệp từ quy hoạch chiến lược, quy hoạch vùng tỉnh, quy hoạch chung cho tới quy hoạch chi tiết. Các công ty, tập đoàn lớn này mang theo những mô hình quy hoạch, kinh nghiệm phát triển quốc tế đến với Việt Nam, một phần giúp nâng cao chất lượng quy hoạch, mặt khác, những mô hình phát triển đô thị tiên tiến, hiện đạilà yếu tố để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các dự án hạ tầng, khu công nghiệp, khu kinh tếsáng tạo, cảng khẩu…
Từ chiều cạnh hệ thống, quy hoạch đô thị trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam cũng đã có những động thái tái cấu trúc tích cực để thích ứng linh hoạt với thị trường. Luật quy hoạch đô thị chính thức ban hành năm 2009. Quy hoạch phân khu (Zoning) được đưa vào hệ thống thay thế cho quy hoạch chi tiết 1:2000, và trở thành lớp quy hoạch trung gian giữa quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết 1:500. Quy hoạch phân khu có vai trò phân chia và xác định chức năng, chỉ tiêu, hệ số sử dụng của các khu đất; sắp đặt mạng lưới hạ tầng kỹ thuật- xã hội trong một khu vực đô thị cụ thể. Đặc biệt, quy hoạch phân khu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý đất đai và trật tự xây dựng của chính quyền cơ sở, tạo dựng nền tảng pháp lý trong việc xét duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
Nếu nhìn vào các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, quy hoạch phân khu (Zoning) luôn là công cụquản lý quan trọng nhất tại cấp địa lý để kiểm soát trật tự xây dựng, đó phương, bởi lẽ đó không chỉ cơ sở pháp còn là cơ sở để các chủ thể lợi ích cùng tham gia hoạch định, thoả thuận, đồng nhất, và cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Một tín hiệu tích cực khác khi nhìn vào thay đổi của phương pháp tiếp cận khi lập quy hoạch, nằm ở tính chiến lược của quy hoạch chung đô thị. Một số nhà nghiên cứu đã nhận định rằng quy hoạch chung ở một số thành phố tại Việt Nam đã bắt đầu thể hiện tính chiến lược (Strategic) nhiều hơn là một công cụ kỹ thuật đơn thuần như trước kia. Quy hoạch chung của một thành phố hay một đô thị không chỉ mang theo các mô hình hay lý thuyết phát triển không gian, mà còn phản ánh tầm nhìn và chiến lược về đầu tư công và khả năng thu hút nguồn lực để thực hiện định hướng đó. Quy hoạch chung là cơ sở pháp lý để chính quyền thành phố ra quyết sách cho các dự án hạ tầng trọng điểm, xác định khu vực ưu tiên phát triển để kêu gọi đầu tư, cũng như những khu vực hạn chế phát triển. Do đó, điều quan trọng nhất là định hướng phát triển của quy hoạch phải phù hợp với định hướng và nhu cầu của thị trường, chỉ khi định hướng quy hoạch của nhà nước và nhu cầu thị trường tương thích thì quy hoạch đô thị mới thu hút được đầy đủ nguồn lực để thực thi, ngược lại, sẽ dẫn đến lãng phí tài nguyên và ngân sách công.
Có thể nhận thấy những chuyển biến quan trọng trong hệ thống quy hoạch và phương pháp lập, quản lý quy hoạch tại Việt Nam trong những năm qua. Những cải cách về hệ thống pháp lý, sự dụng nạp những mô hình, cách tiếp cận mới, cũng như những cải cách thể chế về quyền và trách nhiệm quy hoạch của chính quyền các cấp. Nói cách khác, quy hoạch đô thị trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam phản ánh sự thay đổi do nền kinh tế vĩ mô mang lại, trong đó, chúng ta có thể quan sát thấy tác động của quá trìnhthị trường hoá, toàn cầu hoá và phân cấp hoá.
(3) Thách thức của quy hoạch đô thị trong bối cảnh chuyển đổi
Thách thức đầu tiên của quy hoạch đô thị trong nền kinh tế thị trường đó là yếu tố lợi ích, đã là nền kinh tế thị trường, thì việc các chủ thể lợi ích tham gia vào quá trình phát triển đô thị là điều tất yếu. Thách thức đặt ra là làm sao để quy hoạch đô thị chuyển đổi từ một công cụ kỹ thuật, sang thành công cụ để điều tiết và hài hoà lợi ích? Tại Việt Nam, quy hoạch đô thị vẫn được xem là một chuyên ngành thuộc lĩnh vực thiết kế – xây dựng. Nói cách khác là quy hoạch vẫn mang nặng sắc thái của chuyên môn kỹ thuật xây dựng hơn là chuyên môn về chính sách. Còn tại một số quốc gia có nền kinh tế thị trường thành thục, quy hoạch đô thị được xem là một dạng chính sách công (Public policy), một công cụ để chính quyền có thể tham gia điều tiết thị trường, giải quyết xung đột lợi ích và bảo đảm các giá trị chung của xã hội.
Để làm được điều đó, thì hệ thống quy hoạch của Việt Nam cần phải bổ sungcác cơ chế quản lý phát triển, song hành cùng công cụ quy hoạch. Đó là những cơ chế cho phép chính quyền, nhà đầu tư và cư dân cùng tham gia đàm phán và đạt được những lợi ích chung thông qua nền tảng quy hoạch. Những cơ chế như chuyển nhượng quyền phát triển (TDRs); tái hiệu chỉnh đất (Land re-adjustment); hay cơ chế thoả hiệp về diện tích cây xanh công viên, tỷ lệ nhà ở xã hội, các công trình hạ tầng cơ sở, cần được từng bước hoàn thiện và trở thành cơ chế chính thức. Khi những cơ chế trên được ban hành, thì quy hoạch đô thị sẽ không còn là công cụ quản lý cứng nhắc, mà trở thành một công cụ chính sách có tính tuỳ biến, tính tuỳ biến của quy hoạch là rất cần thiết để đảm bảo quy hoạch đô thị thích nghi được với sự biến động của thị trường.
Thách thức thứ hai đối với quy hoạch đô thị là việc xác lập ranh giới và vai trò, quyền hạn mà các chủ thể lợi ích tham gia vào công tác lập quy hoạch. Thực tiễn phát triển cho thấy, ngay cả tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, việc tư bản thân hữu tham gia và can thiệp vào công tác lậpvà phát triển quy hoạch luôn tồn tại. Tại Việt Nam, dù luật quy hoạch đôthị đã chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của chính quyền các cấp cũng như của chủ đầu tư trong từng loại hình quy hoạch cụ thể, song trong thực tiễn phát triển, làn ranh giới đó cần được phân tách rõ ràng hơn thông qua các cơ chế kiểm tra và giám sát cụ thể.
Thách thức thứ ba đối với quy hoạch đô thị là tỉnh khoa học trong việc xác định mục tiêu tầm nhìn cũng như hoạch định chiến lược phát triển, xác định chỉ tiêu quản lý đất đai và không gian. Trong nền kinh tế thị trường, việc lập quy hoạch phải bám sát với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, mặc dù kinh tế thị trường đã được chứng minh là công cụ phân phối tài nguyên hiệu quả, song thị trường cũng có những khiếm khuyết và hạn chế riêng. Một trong những khiếm khuyết đó là nền thị trường thường có xu hướng theo đuổi tăng trưởng chú trọng lợi nhuận mà ít chú trọng đến cung ứng những sản phẩm công như bảo vệ môi trường, các thiết chế văn hoá, hay tính công bằng xã hội. Do đó, quy hoạch đô thị ngoài việc bám sát thị trường còn cần phát huy tính khoa học và công bằng trong việc hoạch định phát triển.
Kết luận
Từ góc nhìn của kinh tế vĩ mô, bài viết thảo luận mối liên hệ chặt chẽ giữa quá trình thị trường hoá, toàn cầu hoá và phân cấp hoá, và phân tích mối liên hệ giữa nền kinh tế chuyển đổi và quy hoạch đô thị tại Việt Nam. Bài viết đưa ra những so sánh về tính chất và vai trò của quy hoạch đô thị trong nền kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường cho thấy những thay đổi của công cụ quy hoạch, cũng như những thách thức mà quy hoạch đô thị đang phải đối diện. Nếu như quy hoạch trước năm 1986 được xem như một công cụ thuần chất kỹ thuật để thực hiện những dự án của chính phủ, thì trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch đô thị dần trở thành công cụ để quản lý và định hướng phát triển.
Yếu tố thách thức lớn nhất đối với quy hoạch đương đại là làm sao sử dụng công cụ này để điều tiết các mối quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường. Người viết cho rằng, quy hoạch đô thị trong nền kinh tế thị trường cần có những bước chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, từ công cụ kỹ thuật đơn thuần, trở thành một dạng công cụ chính sách (hay, một dạng chính sách công) điều đã diễn ra ở các quốc gia có nền kinh tế thị trưởng thành thục. Điều đó không chỉ đòi hỏi việc thể chế hoá cũng như gia tăng tính khoa học của công tác quy hoạch, mà đồng thời đòi hỏi sự ban hành các cơ chế “mang tính thoả hiệp” (Negotiate mechanism) song hành cùng các chỉ tiêu kỹ thuật.
KTS. NGUYỄN HOÀNG LINH*
(Nguồn: Tạp chí Quy hoạch Đô thị)
*Giảng viên khoa Kiến Trúc – Mỹ thuật, Đại học công nghệ TP. Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Quang, N.; Kammeier, H.D. Changes in the political economy of Vietnam and theirimpacts on the built environment of Hanoi Cities. 2002, 19, 373-388.
- Nguyen, H.L; Duan, J; Liu, J.H. State Control Versus Hybrid Land Markets: Planning and Urban Development in Transitional Hanoi, Vietnam Sustainability 2018, 10, 2993.
- McGee, T. G. Interrogating the production of urban space in China and Vietnam under market socialism. Asia Pacific Viewp. 2009, 50,228-246.
- Labbé, D.; Musil, C Periurban land redevelopment in Vietnam under marketsocialism Urban. Stud 2014, 51, 1146-1161. 5. Le, X.B. Policies on attracting investment into real estate market in Vietnam. Publisher of National Politics, Hanoi, 2006.
- Huynh, D. The misuse of urban planning in Ho Chi Minh City. Habitat Int 2015, 48, 11-19.