Nghị định số 257/2025/NĐ-CP ngày 8/10/2025 (NĐ 257) quy định chi tiết việc thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) ghi nhận nhiều nội dung đổi mới toàn diện với hợp đồng BT thanh toán bằng quỹ đất, từ phương thức thanh toán, xác định giá trị quỹ đất thanh toán, cơ chế bù trừ chênh lệch…
Việc linh hoạt phương thức thanh toán quỹ đất nhiều lần hoặc một lần ngay khi ký hợp đồng đi kèm các điều kiện chặt chẽ mở ra nhiều cơ hội mới thu hút nguồn lực đầu tư Ảnh: Quốc Ân
Chốt 3 phương thức thanh toán bằng quỹ đất
NĐ 257 quy định 3 phương thức thanh toán bằng quỹ đất. Đối với dự án có tổng mức đầu tư (TMĐT) tương đương nhóm C theo quy định của pháp luật về đấu tư công, áp dụng phương thức thanh toán toàn bộ quỹ đất một lần sau khi công trình dự án BT hoàn thành, nghiệm thu, đủ điều kiện đưa vào khai thác sử dụng.
Đối với dự án có TMĐT tương đương nhóm A và nhóm B, cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng phương thức thanh toán một lần theo quy định nêu trên hoặc áp dụng phương thức thanh toán quỹ đất nhiều lần tương ứng với tỷ lệ phần trăm khối lượng nghiệm thu công trình dự án BT hoặc tương ứng với giá trị nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình độc lập.
Đối với dự án độc lập có quy mô tổng mức đầu tư từ 20.000 tỷ đồng trở lên, hoặc dự án thành phần thuộc dự án có quy mô tổng mức đầu tư từ 20.000 tỷ đồng trở lên, hoặc các dự án liên quan có liên kết chặt chẽ với dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm quốc gia theo nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ thì cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định giao toàn bộ quỹ đất một lần cho nhà đầu tư (NĐT) thực hiện dự án BT sau khi ký kết hợp đồng dự án để tạo điều kiện cho NĐT huy động nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình dự án bảo đảm kết nối, khai thác hạ tầng đồng bộ. Trong trường hợp này, quỹ đất thanh toán phải đáp ứng đủ điều kiện giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai, NĐT phải nộp cho cơ quan có thẩm quyền bảo lãnh của ngân hàng thương mại với giá trị bảo lãnh tối thiểu bằng giá trị công trình BT tại quyết định phê duyệt dự toán công trình BT; bảo đảm bảo lãnh của ngân hàng có hiệu lực tại thời điểm hợp đồng dự án BT có hiệu lực. Đồng thời, NĐ cũng quy định rõ các nguyên tắc xử lý trong trường hợp NĐT, doanh nghiệp dự án (DNDA, nếu có) không thực hiện nghĩa vụ xây dựng, hoàn thành, chuyển giao công trình dự án BT theo đúng tiến độ cam kết tại hợp đồng BT đã ký kết, trừ trường hợp bất khả khảng. Trong đó, NĐT, doanh nghiệp dự án (DNDA) khởi công xây dựng công trình dự án BT chậm quá 24 tháng hoặc hoàn thành công trình BT chậm quá 24 tháng so với cam kết tại hợp đồng BT, sẽ bị chấm dứt hợp đồng dự án BT, thu hồi toàn bộ quỹ đất thanh toán, thu hồi toàn bộ số tiền bảo lãnh theo bảo lãnh nêu trên…
Chặn giao quỹ đất lớn gấp nhiều lần giá trị công trình BT
Trong giai đoạn thực hiện dự án BT trước đây, một trong những vướng mắc chính được tổng hợp từ hơn 160 dự án BT chuyển tiếp là vướng mắc phát sinh từ quy định của luật về thanh toán cho NĐT. Pháp luật quy định thanh toán theo nguyên tắc ngang giá, nhưng giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán thường vượt quá giá trị công trình BT, địa phương lúng túng trong việc xử lý, cắt bớt quỹ đất hay NĐT nộp tiền bổ sung, gây ách tắc thanh toán. Một phần nguyên nhân đến từ việc quỹ đất thanh toán được lựa chọn không phù hợp, có trường hợp lớn hơn nhiều lần tổng mức đầu tư công trình BT; hay có trường hợp khi lập dự án BT, thậm chí đến khi ký hợp đồng, vẫn chưa xác định cụ thể quỹ đất thanh toán, dẫn đến nhiều rắc rối về sau hay phát sinh kẽ hở cho tiêu cực, thất thoát quỹ đất.
Theo đó, trong quá trình lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, cơ quan có thẩm quyền hoặc NĐT đề xuất dự án phối hợp với cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đất đai cấp tỉnh để xác định quỹ đất thanh toán cho NĐT thực hiện dự án BT thanh toán bằng quỹ đất theo các điều kiện và nguyên tắc quy định tại Nghị định. Giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán được xác định theo nguyên tắc tương đương với tổng mức đầu tư công trình dự án BT hoặc chênh lệch cao hơn hoặc thấp hơn so với tổng mức đầu tư công trình dự án BT tối đa 10%. Trường hợp giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán thấp hơn 90% tổng mức đầu tư công trình dự án BT, cơ quan có thẩm quyền xem xét áp dụng hợp đồng BT kết hợp thanh toán bằng quỹ đất và ngân sách nhà nước (nguồn vốn đầu tư công) để bảo đảm tổng giá trị quỹ đất và vốn đầu tư công dự kiến thanh toán tương đương với tổng mức đầu tư công trình dự án BT. Nghị định cũng nêu một số trường hợp đặc biệt, cơ quan có thẩm quyền xem xét xác định quỹ đất dự kiến thanh toán cho NĐT có giá trị cao hơn 110% tổng mức đầu tư công trình dự án BT.
Giá trị quỹ đất để thanh toán thực tế sẽ được xác định tại thời điểm thanh toán. Theo đó, thời điểm thanh toán quỹ đất là thời điểm cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất cho NĐT, DNDA (nếu có); giá trị quỹ đất thanh toán được xác định căn cứ quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất và không thay đổi kể từ thời điểm này.
NĐ 257 quy định nguyên tắc NĐT, DNDA (nếu có) được thanh toán toàn bộ quỹ đất được xác định tại quyết định phê duyệt dự án BT, hợp đồng để thực hiện dự án đối ứng. Trong trường hợp giá trị công trình dự án BT quyết toán thấp hơn giá trị quỹ đất thanh toán thực tế thì NĐT, DNDA nộp bổ sung vào ngân sách nhà nước giá trị chênh lệch thực tế; trường hợp ngược lại, cơ quan ký kết hợp đồng thanh toán bổ sung cho NĐT, DNDA giá trị chênh lệch thực tế.