Đặt vấn đề:
Khu phố cổ Hội An là một trong những quần thể di tích kiến trúc- đô thị được bảo tồn gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Quần thể này bao gồm nhiều loại hình di tích kiến trúc và nghệ thuật rất đa dạng thể hiện sự giao lưu, tiếp biến mạnh mẽ giữa các nền văn hóa trong nước và nước ngoài, thể hiện rõ nét là một thành phố – Cảnh thị cửa sông – ven biển thời trung cận đại ở Việt Nam và Đông Nam Á, minh chứng cho một thời kỳ phát triển rực rỡ của Hội An lúc bấy giờ (thế kỷ 16-19).
Tại khóa họp lần thứ 22 tại Marakech (Maroco) Ủy ban Di sản thế giới đã chính thức ghi đô thị cổ Hội An vào danh mục di sản văn hóa thế giới do Hội An đáp ứng được hai tiêu chí:
– Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế.
– Hội An là điển hình tiêu biểu của một cảng thị châu Á được bảo tồn hoàn hảo.
Kể từ khi được phát hiện vào năm 1985, đặc biệt từ sau khi được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1999, Hội An hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Chỉ sau 10 năm, từ một thị xã nhỏ bé Hội An đã trở thành đô thị loại 3 thuộc tỉnh Quảng Nam với mức tăng trưởng GDP hàng năm trên 13% trong đó du lịch và dịch vụ chiếm tỷ trọng 65%. Năm 2008 đón trên 1 triệu lượt khách trong nước và quốc tế. Quy mô dân số tăng hơn 30% (70.000 dân năm 1999, 100.000 dân năm 2009). Quy mô đất ở đô thị tăng gấp đôi từ 230ha lên 500ha.
So với bề dày lịch sử hình thành và phát triển của Hội An từ thế kỷ XVI đến nay thì đây là quãng thời gian phố cổ có tốc độ đô thị hóa tăng rất nhanh. Tình hình tăng trưởng nóng này bắt đầu tạo ra những nguy cơ và hệ lụy thực sự tác động ngược trở lại vào chính khu phố cổ – hạt nhân tạo nên sự tăng trưởng chung của thành phố.
Đặc trưng của Hội An là thành phố có di sản văn hóa thế giới, vì vậy định hướng phát triển chung của Hội An cần phải hài hòa với công tác bảo tồn di sản,lấy di sản làm nền cho phát triển.
I. Lịch sử hình thành-Phát triển và Suy thoái:
Tìm hiểu về Hội An đến nay nhiều học giả nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của Hội An, nhiều du khách… không khỏi ngạc nhiên vì sự tồn tại gần như nguyên vẹn của đô thị Hội An trước bao thăng trầm của lịch sử. Vì sao Hội An lại có thể tránh được các tai họa đến từ thiên nhiên và con người: Lũ lụt, bão tố, hỏa hoạn, chiến tranh tàn phá và đặc biệt không bị đô thị hóa nặng nề như một số đô thị khác trong nước và quốc tế mặc dù trong quá khứ Hội An đã từng là một cảng thị buôn bán sầm uất nhất trong khu vực.
Nhìn lại lịch sử phát triển của Hội An, có một thời điểm quan trọng đánh dấu sự suy thoái của đô thị này: Vào cuối thế kỷ XIX do các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt tuyến giao thông chính của Hội An với quốc tế là cửa biển Cửa Đại bị bồi cạn khiến các thương thuyền trọng tải lớn không thể ra vào cảng Hội An mà phải chuyển sang cửa Hàn của thành phố Đà Nẵng, đồng thời sông Cổ Cò là tuyến giao thông thủy nối giữa Hội An và Đà Nẵng cũng bị bồi lấp nhiều đoạn. Những nỗ lực cứu vãn tình thế của chính quyền lúc bấy giờ đều không thành. Vào những năm cuối thế kỷ XIX giao thương của Hội An với thế giới và nội địa chính thức bị cắt đứt khi vào năm 1835 vua Minh Mạng ra chỉ dụ: “Các tàu Tây chỉ được vào cảng cửa Hàn buôn bán, các cảng khác không được vào”. Kết quả là từ một cảng thị nhộn nhịp nhất và lớn nhất của xứ Đàng Trong, Hội An nhanh chóng rơi vào quên lãng, chỉ còn là một thị trấn nhỏ, nằm im lìm bên bờ sông Thu Bồn hơn một thế kỷ cho đến khi được phát hiện và công nhận là di sản văn hóa thế giới, Hội An mới bừng tỉnh và phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
“Trong cái rủi có cái may”. Nhờ bị quên lãng trong một thời gian dài nên đô thị Hội An đã may mắn vô tình thoát khỏi sự tàn phá của quá trình đô thị hóa và được bảo tồn nguyên vẹn một cách ngẫu nhiên tất cả các di sản vật thể và phi vật thể để đến ngày nay trở thành di sản VHTG, báu vật vô giá cho hôm nay và mai sau.
Để thấy rõ cái may mắn của Hội An và hậu quả của việc thiếu định hướng phát triển không gian đô thị đối với công tác bảo tồn có thể lấy 2 thí dụ để so sánh:
Khu phố cổ của Hà Nội cuối thế kỷ XIX :
Tấm bản đồ cổ Hà Nội cổ năm 1873 cho thấy khu vực 36 phố phường lúc đó còn như những làng nghề xen kẽ với các hồ nước, ruộng lúa, phía sông Hồng và Hồ Gươm vẫn là những khoảng không rộng lớn nhưng chỉ hơn 100 năm sau sự phát triển của một đô thị trung tâm thiếu định hướng phát triển bền vững đã khiến cho toàn bộ phố cổ Hà Nội bị nêm chặt cứng bởi nhà cửa, phố xá như ngày nay.
Khu cố đô Huế:
Là một ví dụ tương tự nhưng có may mắn hơn. Mặc dù tốc độ đô thị hóa của TP. Huế cũng rất nhanh và thiếu kiểm soát nhưng nhờ khu cố đô Huế được bao bọc bởi hệ thống thành cao hào sâu nên đã tránh được sự xâm lấn của các khu dân cư xung quanh.
Hiện nay một số đô thị di sản tương tự như đô thị cổ Hội An trên thế giới cũng đứng trước nguy cơ bị biến dạng hoặc mất tính nguyên gốc của di tích và các giá trị văn hóa cần bảo tồn khác do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ như đô thị cổ Jerusalem (Isarael), thành phố cổ Edinburgh, thành phố cổ Zabit (Yemen),Tp cổ Inner-Bacu…
II. Hội An và nguy cơ Đô thị hóa:
Hội An đã may mắn thoát được sự tàn phá của qúa trình đô thị hóa trong quá khứ, tuy nhiên ngày nay sự bùng phát về phát triển du lịch trên cả nước và miền trung trong đó Hội An là một trong những tâm điểm thu hút du khách và đầu tư lớn nhất khu vực. Chỉ trong thời gian ngắn từ 1999 đến nay mọc lên hàng chục khách sạn, resort cao cấp, hàng loạt khách sạn tư nhân, nhà hàng, cửa hàng dịch vụ, các khu dân cư, biệt thự, các khu đô thị mới… khiến đô thị phình to nhanh chóng kể cả về quy mô sử dụng đất và quy mô dân số. Sự phát triển này trở nên khó kiểm soát và nguy cơ đô thị mới nuốt chửng đô thị cổ trở nên nóng bỏng. Bài toán về mối quan hệ giữa phát triển toàn diện đô thị và bảo tồn phố cổ cần phải được giải quyết dứt khoát bằng các giải pháp quy hoạch mang nặng tính định hình, định lượng một cách kiên quyết cho khu vực phố cổ và vùng đệm, định hướng phát triển hợp lý cho khu vực mở rộng thành phố, làm nền cho Hội An phát triển toàn diện, bền vững.
Các nguy cơ – thách thức Hội An phải đối mặt :
1.2. Tác động của sự phát triển liên vùng:
Việc phát triển một số trung tâm kinh tế lớn trong khu vực như TP. Đà Nẵng, khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất… đặc biệt khi cầu Cửa Đại và tuyến đường giao thông ven biển hoàn thành sẽ tạo thành động lực to lớn phát triển cho toàn vùng nhưng đồng thời cũng sẽ tạo ra những áp lực mới tuy gián tiếp nhưng cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của TP. Hội An
2.2. Sự bành trướng đô thị:
Đô thị phình to theo hướng lấy phố cổ làm trung tâm, kết quả là các không gian xanh bao quanh phố cổ, vùng đệm quan trọng tạo nên cảm giác bình yên, thanh bình cho phố cổ dần dần biến thành các khu đô thị, các khu dân cư.
3.2. Sự “nêm chặt” không gian:
Khu vực kế cận phố cổ hiện trạng còn rất nhiều khu đất trống, khu vườn rộng trong các khu nhà dân. Các không gian nay đóng góp rất lớn vào việc tạo nên cảm giác tĩnh nặng trầm mặc cho thành phố. Tuy nhiên các không gian này hiện đang bị xẻ đất, xẻ vừơn ra bán. Hiện tượng này đang diễn ra âm thầm nhưng hết sức nhanh chóng.
4.2. Sự biến dạng di tích:
Việc thay đổi chủ nhân của các ngôi nhà cổ và thay đổi cấu trúc bên trong nhằm biến di tích trở thành cửa hàng, cửa hiệu đang diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt làm biến dạng các di tích gốc kể cả mối quan hệ huyết thống, gia đình, tộc họ… biến dạng bản sắc văn hóa địa phương.
5.2. Sự quá tải du khách – mâu thuẫn giữa khai thác và bảo tồn.
Một trong những mối lo ngại nhất làm tăng nhanh sự xuống cấp di tích cổ là tình trạng quá tải khách du lịch (trong dịp lễ 30/4 và 1/5/2009 trên 5.000 lượt khách đến Hội An đã làm kín hơn 3.000 phòng khách sạn, các dịch vụ khác đều quá tải). Tình trạng này sẽ còn gia tăng nhanh hơn nữa trong những năm tới do việc tập trung quy hoạch xây dựng hàng trăm dự án du lịch cao cấp dọc theo bờ biển của các tỉnh miền Trung. Đã đến lúc phải đặt câu hỏi: “sức chứa” của Hội An nên giới hạn bao nhiêu để khỏi bị quá tải? Có nên cấp quota tham quan phố cổ hay không?
6.2. Sự biến mất các cồn nổi, bãi sông:
Hội An có rất nhiều cồn bãi giữa và ven sông Thu Bồn, sông Hoài. Chính các cồn bãi này tạo nên một dáng vẻ không gian rất riêng như một đặc trưng về cảnh quan của Hội An, tuy nhiên hiện nay đang xảy ra hiện tượng cho phép lấy các cồn bãi này để xây dựng các khu resort, nhà nghỉ, biệt thự…
7.2. Sự tập trung thái quá các khu sinh hoạt công cộng lớn trong trung tâm phố cổ:
Do nhu cầu quảng bá hình ảnh du lịch và văn hóa đặc sắc của Hội An thành phố đã xây dựng các khu sinh hoạt cộng đồng ở khu vực trunh tâm, bờ sông Hoài… Sự tập trung này càng làm trầm trọng thêm tình trạng quá tải du khách trong khu phố cổ
8.2. Nguy cơ các cánh đồng vốn là đặc trưng cảnh quan thiên nhiên của Hội An biến thành các khu đô thị mới, khách sạn, nhà hàng…
9.2. Các nguy cơ về ô nhiễm môi trường.
10.2. Các nguy cơ về hỏa hoạn, thiên tai, mối mọt…
III. Mô hình phát triển không gian nhằm bảo vệ TP. Hội An trước nguy cơ đô thị hóa, hướng tới phát triển bền vững:
1.3. Khái niệm “Thành phố vườn” do Ebenezer Howard đề xuất năm 1898.
Theo Howard thì thành phố tuy có điều kiện tốt về hoạt động sống và làm việc, có hoạt động văn hóa phong phú nhưng luôn phải đối mặt với những sức ép của nhịp sống đô thị, với nạn ô nhiễm môi trường… trong khi nông thôn lại có ưu thế về đời sống lành mạnh và thiên nhiên trong lành, yên tĩnh. Từ đó ý tưởng “Thành phố vườn” của ông ra đời với mục tiêu tạo ra một mô hình thành phố có cả ưu điểm của đô thị lớn lẫn lợi thế của nông thôn, dung hòa được những mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn, bảo đảm cho con người sống một cuộc sống hài hòa giữa tiện nghi hiện đại và môi trường trong lành.
Năm 1898, tập sách “Garden Cities of Tomorrow” trong đó Howard đã mô tả ý tưởng mặt bằng thành phố vườn có dạng hình tròn, hướng tâm. Quy mô mỗi đô thị chiếm khoảng 2.400ha, trong đó diện tích nội đô khoảng 400ha, đáp ứng trên 32.000 dân, còn 2.000ha ở vòng ngoài dành riêng một cách lâu dài cho khu cây xanh và đất dùng vào mục đích nông nghiệp. Vành ngoài cùng của thành phố vườn được bố trí các khu công nghiệp, nhà máy, kho tàng… Một tuyến xe lửa chạy vòng quanh phía ngoài để chở hàng đến các nhà máy, tránh được hiện tượng các xe tải chạy xuyên qua thành phố. Theo Howard, khi thành phố phát triển vừa tới quy mô nói trên thì dừng không tăng dân số nữa, có thể xây dựng thêm đô thị khác với quy mô tương tự nếu cần thiết.
Sáng tạo “Thành phố vườn” của Howard đã được xem như chìa khóa để mở cửa cho sự khủng hoảng của đô thị tư bản, khi mà con người nhận thức ra được mặt trái của sự phát triển quá mức của thành phố công nghiệp thời bấy giờ (giữa thế kỷ XIX – XX). Là một giải pháp lý tưởng tìm lối đi cho hoạt động xây dựng đô thị đang bế tắc về phương hướng. Ảnh hưởng của nó rất sâu rộng và được hưởng ứng nhiệt liệt ở nhiều nước trên thế giới. Một số thành phố đã được xây dựng tương đối thành công theo mô hình này là TP. Lechworth ở Anh (1903) và Welwyn ở Hà Lan (1919). Ngày nay, những ý tưởng chính của ông về một đô thị hài hòa giữa con người và thiên nhiên vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở lý luận cho những mô hình đô thị vệ tinh, chuỗi đô thị, đô thị xanh, đô thị sinh thái… sau này.
2.3. Mô hình phát triển không gian hướng tới phát triển bền vững cho thành phố Hội An
Đô thị hóa là quy luật tất yếu của một xã hội phát triển, Hội An cũng không nằm ngoài quy luật đó, thậm chí còn có tốc độ phát triển rất nhanh. Vì vậy đi tìm một mô hình phát triển không gian phù hợp, không làm mất đi lợi thế tâm điểm động lực phát triển kinh tế khu vực mà vẫn bảo đảm bảo tồn di sản có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
Thành phố vườn theo quan điểm của Ebenezer Howard có ưu điểm vượt trội vì nó có tiện nghi của các đô thị lớn nhưng vẫn có những lợi thế của các vùng thôn dã. Đặc biệt là ý tưởng về một đô thị có quy mô vừa phải, ổn định, phù hợp với điều kiện sống một cách lý tưởng và một vùng đệm không gian xanh rộng lớn bọc lấy đô thị , giữ cho môi trường thành phố luôn trong lành. Đó là cái mà đô thị Hội An cần hướng tới và hoàn toàn có khả năng theo mô hình này. Đây sẽ là một gợi ý có tầm quan trọng, có thể giải quyết bài toán giữa phát triển và bảo tồn của đô thị Hội An một cách cơ bản.
Xây dựng mô hình phát triển không gian thành phố trở thành một đô thị xanh- đô thị sinh thái với tiêu chí : “Phố trong vườn- vườn trong phố”.
SƠ ĐỒ LÝ THUYẾT
* Giữ nguyên trạng khu vực phố cổ
* Hạn chế phát triển nội đô
* Thiết lập vùng đệm cây xanh-cánh đồng
* Bố trí các trung tâm vệ tinh nằm ngoài vùng đệm
* Định hướng và liên kết đô thị trung tâm với các khu vực phát triển
* Tăng cường mật độ cây xanh trong đô thị.
* Dãn hoạt động đông người ra ngoài vùng đệm
Các giải pháp tổ chức phát triển không gian hướng tới phát triển bền vững.
Đối với khu phố cổ:
Giữ nguyên hình thái kiến trúc, cấu trúc của phố cổ và các di tích.
Bảo tồn có phát huy giá trị di sản trên cơ sở bảo đảm bảo tồn tính nguyên gốc của di tích.
Tìm lại các tư liệu cổ xưa về hoạt động buôn bán, giao dịch, thương mại nhằm xây dựng lại hình ảnh phố xưa qua đó đem lại cảm xúc và hình ảnh đích thực của TP Cảng thị ngày xưa.
Hạn chế thương mại hóa phố cổ.
Hạn chế gia tăng mật độ dân số bằng các quy chế bảo vệ di sản được cộng đồng dân cư chấp thuận như không tách thửa đất để xây dựng mới, không chuyển đổi công năng nhà sang các mục đích sử dụng đông người như khách sạn, nhà hàng lớn…
Đối với khu vực ngoài phố cổ:
Thiết lập một khu đệm an toàn cho phố cổ: bao gồm bờ sông Hoài, các cánh đồng Cẩm Châu, Cẩm Thanh, Thanh Hà… bao quanh phố cổ, khu vực đệm này có tác dụng vừa bảo vệ phố cổ, chống xâm lấn vừa phục hồi không gian yên bình vốn có của phố cổ ngày xưa.
Thiết lập “khung cứng” chống xâm lấn qua khu vực đệm bằng hệ thống đường đi dạo bao bọc toàn bộ các khu vực có nguy cơ bị xâm lấn. Đây là một giải pháp tuy đơn giản nhưng có tác dụng khống chế chống xây dựng trái phép hết sức hiệu quả.
Định vị các trung tâm vệ tinh nằm ngoài khu vực đệm bao gồm các trung tâm mua bán, trung tâm dịch vụ giải trí, trung tâm lễ hội dân gian truyền thống, Trung tâm TDTT, công viên văn hóa đa năng, quảng trường thành phố… nhằm dãn các hoạt động đông người ra khỏi khu vực phố cổ.
Liên kết thuận lợi, hài hòa giữa “trung tâm mẹ” và các trung tâm vệ tinh bằng hệ thống giao thông kết hợp cây xanh cảnh quan tạo cho du khách cảm thụ thiên nhiên xinh đẹp, êm đềm.
Các khu du lịch cao cấp, resort, biệt thự… bố trí dọc bờ biển và dọc sông Thu Bồn, sông Cổ Cò… nhằm khai thác triệt để cảnh quan thiên nhiên, đồng thời góp phần kéo hoạt dộng của du khách ra xa trung tâm, giảm tải cho khu vực phố cổ.
Quy hoạch tổ chức không gian du lịch phù hợp với Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới
Phân bố các khu nhà ở, các khu đô thị mới dãn xa ra khu vực trung tâm, hướng về phía TP Đà Nẵng và thị trấn Vĩnh Điện, phía nam sông Thu Bồn…
Giữ nguyên các khu vườn, đường làng, ngõ xóm, ao hồ, các mảnh ruộng hiếm hoi đang nằm xen kẽ giữa các khu phố.
Gìn giữ các cánh rừng dừa nước và hệ sinh thái đầm lầy cửa sông.
Xây dựng quy hoạch định hướng phát triển không gian thành phố trở thành một đô thị xanh- đô thị sinh thái với tiêu chí : ” phố trong vườn- vườn trong phố”.
Bố cục không gian hợp lý, linh hoạt, bền vững cho các yếu tố phát triển khác của thành phố, hạn chế phát triển công nghiệp.
Dự trữ nguồn lực, tài nguyên cho tương lai:
Định hướng hệ thống hạ tầng khung, công trình kỹ thuật đầu mối cho tương lai xa.
Bảo vệ, gìn giữ các cánh đồng, rừng dừa nước, các cồn nổi, bãi ven sông ven biển.
Xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn hiện đại, đồng bộ.
Kiện toàn bộ máy chính quyền đô thị
IV.Kết Luận
Bảo vệ TP. Hội An trước nguy cơ đô thị hóa, hướng tới phát triển bền vững là nhiệm vụ hết sức bức thiết, rất cần có một nghiên cứu phát triển bền vững của thành phố trên cơ sở xây dựng một chiến lược tổng hợp, đồng bộ các định hướng phát triển của tất cả các ngành kinh tế văn hóa, xã hội, môi trường… trong đó nhiệm vụ của quy hoạch đô thị là định dạng, định hướng, định lượng, bố trí không gian cho tất cả các chiến lược phát triển ấy một các hài hòa, mềm dẻo, linh hoạt. Một đô thị có được định hướng phát triển không gian tốt sẽ góp phần cơ bản đảm bảo cho đô thị đó phát triển một cách bền vững. Có thể ví quy hoạch xây dựng đô thị như một con thuyền chở trên đó các định hướng phát triển đa ngành, con thuyền tốt và có người lái thuyền giỏi sẽ đưa con thuyền cập bến bình yên.
ThS.KTS Hoàng Văn Sừ