Tóm tắt
Bản sắc trong kiến trúc không còn là vấn đề tùy hứng hay hoài niệm mà ngày càng trở thành yêu cầu quan trọng của phát triển bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, nhiều công trình kiến trúc đương đại đang có xu hướng đồng hóa, dẫn đến sự mai một tính địa phương, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển, có truyền thống sâu sắc như Việt Nam. Bài viết đề xuất một mô hình lý thuyết có tên gọi “Ba lớp chuyển hóa”, nhằm định hướng cách tiếp cận có hệ thống trong việc tích hợp các yếu tố truyền thống vào thực hành thiết kế hiện đại. Khung lý thuyết bao gồm ba tầng tiếp cận: (1) Hình thức; (2) Nguyên lý tổ chức; (3) Tinh thần văn hóa. Đây không chỉ là một công cụ phân tích, mà còn là nền tảng cho tư duy sáng tác, phản biện và đào tạo kiến trúc trong kỷ nguyên mới.
- Đặt vấn đề
Việt Nam là quốc gia có lịch sử lâu đời với hệ thống di sản kiến trúc đa dạng, phản ánh đặc tính văn hóa, khí hậu và thẩm mỹ bản địa. Tuy nhiên, trong thời gia vừa qua, kiến trúc Việt Nam hiện đại ngày càng chịu ảnh hưởng từ các dòng chảy thiết kế quốc tế, đặc biệt là trong điều kiện đô thị hóa nhanh và sự phổ biến của ngôn ngữ kiến trúc công nghiệp. Hệ quả là xuất hiện hai xu hướng cực đoan: Một mặt, sao chép hình thức truyền thống một cách hời hợt, tạo nên các công trình “giả cổ”, mang tính “biểu diễn”, mặt khác, tuyệt đối hóa hình thức hiện đại, dẫn đến rạn vỡ mối liên hệ giữa kiến trúc và cộng đồng cư dân bản địa.
Trước tình hình đó, việc xây dựng một mô hình tiếp cận phân tầng giúp KTS xác định rõ mức độ và cách thức chuyển hóa truyền thống là điều cần thiết. Khái niệm “Ba lớp chuyển hóa” ra đời như một nỗ lực lý thuyết hóa yêu cầu này.
- Tổng quan lý thuyết liên quan
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã từng đề xuất các khái niệm về bản sắc và chuyển hóa trong kiến trúc. Có thể điểm qua các công trình của các tác giả ở nước ngoài:
Kenneth Frampton (1983): “Critical Regionalism” như một phản ứng đối với Chủ nghĩa Hiện đại toàn cầu, đề cao bản sắc văn hóa thông qua trải nghiệm không gian;
Norberg-Schulz (1979): Khái niệm “Genius Loci” – tinh thần của nơi chốn, cho thấy mối liên hệ giữa kiến trúc và cảm thức bản địa;
Nghệ thuật hậu hiện đại (Jencks, Venturi): Cổ vũ việc sử dụng biểu tượng văn hóa để tạo tính địa phương;
Hiện tượng học (Phenomenology): Là một cách tiếp cận trong thiết kế và nghiên cứu kiến trúc, tập trung vào trải nghiệm của con người vào không gian và nơi chốn. Nó nhấn mạnh vai trò của các giác quan, cảm xúc, và nhận thức cá nhân trong việc hình thành mối liên hệ giữa con người và môi trường xung quanh, thay vì chỉ đơn thuần là đáp ứng các yếu tố hình thức hay công năng;
Thông diễn học (Hermeneutics): Xuất phát từ triết học ngôn ngữ → chuyển sang kiến trúc như một hình thức “giải mã biểu tượng – văn hóa”. Kiến trúc trở thành hành động “diễn giải ký ức tập thể” dưới dạng không gian sống động.
Tại Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu của các tác giả:
TS.KTS Doãn Đức (2021): “Xu hướng thể hiện tính truyền thống trong kiến trúc hiện đại Việt Nam”. Tác giả giới thiệu một số công trình kiến trúc tiêu biểu, chỉ ra một số cách thức khai thác các yếu tố truyền thống như: Hệ kết cấu, hệ mái, hoa văn, chi tiết trang trí, vật liệu, các yếu tố bản địa,… Đồng thời tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong việc khai thác yếu tố truyền thống trong một số công trình kiến trúc;
TS.KTS Phạm Phú Cường, KTS Nguyễn Song Hoàn Nguyên, KTS Nguyễn Ngọc Sơn (2024): “Các xu hướng tiêu biểu của kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975”. Nhóm tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích sự hình thành các xu hướng kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam, trong đó nhấn mạnh các yếu tố bản sắc; đồng thời cũng nêu rõ: Xu hướng Hiện đại – Dân tộc mang dấu ấn văn hóa bản địa kết hợp yếu tố truyền thống vào hiện đại góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc;
TS.KTS Nguyễn Quốc Tuân, KTS Hoàng Thúc Hào (2024): “Bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống trong phát triển kiến trúc Việt Nam”. Nhóm tác giả đã thực hiện việc rà soát và giới thiệu các công trình có giá trị trong việc khai thác các yếu tố truyền thống của kiến trúc Việt Nam, giới thiệu các giai đoạn nghiên cứu, hướng nghiên cứu, ứng dụng,…
KTS Nguyễn Mạnh Trí, TS.KTS Trương Ngọc Lân (2024): “Khai thác và kế thừa truyền thống trong kiến trúc Việt Nam sau đổi mới”. Nhóm tác giả đã nêu ra các nỗ lực của KTS cùng với việc tìm hiểu các công trình kiến trúc được thiết kế xây dựng sau năm 1986 có khai thác và kế thừa các các giá trị truyền thống.
Các công trình đã bàn đến yếu tố truyền thống trong thiết kế ở các khía cạnh, nhóm vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các nhóm vấn đề đó còn ở dạng riêng lẻ, chưa thấy được sự liên kết chặt chẽ, hệ thống, có khả năng ứng dụng đa dạng trong thực tiễn.
- Đề xuất mô hình lý thuyết: “Ba lớp chuyển hóa”
Từ những phân tích đã trình bày cùng với quá trình tổng hợp kinh nghiệm thiết kế bản địa, các lý thuyết tiếp biến văn hóa cũng như yêu cầu thực tiễn đặt ra với kiến trúc hiện nay, chúng tôi đề xuất mô hình lý thuyết “Ba lớp chuyển hóa” như một khung tư duy phân tầng có khả năng ứng dụng vào phân tích, sáng tác, đào tạo và nghiên cứu kiến trúc đương đại Việt Nam.
3.1 Cấu trúc mô hình
3.1.1 Lớp thứ nhất: Hình thức (Formal Translation)
Hình thức là lớp tiếp cận thị giác đầu tiên, nơi truyền thống được gợi nhắc qua vật liệu, tỷ lệ, chi tiết trang trí, hình khối. Đây là lớp dễ nhận diện và tiếp cận nhất, giúp công trình “gợi nhớ” truyền thống qua thị giác như: Mái ngói, họa tiết chạm trổ, hoa văn trang trí, vật liệu dân gian… Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở hình thức, công trình dễ rơi vào tình trạng “Vỏ truyền thống – Ruột rỗng” hay nói cách khác là “sao chép ký ức” thay vì “kích hoạt ký ức”.
Trong quá trình nghiên cứu thiết kế, cần phân biệt “gợi hình” và “mượn hình”:
“Gợi” chứ không “tả”, hạn chế cách thức sao chép máy móc, thiếu đi tư duy sáng tạo;
Khai thác chất liệu bản địa mới: Gạch đục lỗ, tấm vật liệu cắt CNC, bê tông đá rửa, tre uốn nhiệt… giúp truyền thống được hiện đại hóa;
Ứng dụng lý thuyết Semiotics (Ký hiệu học): Mỗi hình ảnh cần mang chức năng biểu đạt và không bị trống rỗng ngữ nghĩa.
3.1.2 Lớp thứ hai: Nguyên lý tổ chức (Spatial Logic Translation)
Nguyên lý là lớp tư duy về cấu trúc không gian – khí hậu – lối sống – tổ chức sử dụng: Phản ánh tư duy tổ chức không gian truyền thống như: Hiên – sân – nhà, trục đối xứng, mở – đóng linh hoạt, thông gió thụ động, phân tầng xã hội,… Không gian truyền thống không chỉ là nơi ở mà còn là nơi diễn ra quan hệ sống, gắn với tập quán, ứng xử và cả triết lý. Việc chuyển hóa lớp này đòi hỏi KTS hiểu sâu về logic sinh hoạt bản địa và khả năng biến đổi sáng tạo theo nhu cầu mới.
Trong quá trình nghiên cứu thiết kế cần xem xét các yếu tố:
Khai thác nguyên lý “tĩnh – động – đệm” trong tổ chức không gian. Trong thiết kế không gian ở có thể tổ chức theo bố cục hành lang – sân – gian giữa – phòng ngủ,…
Tái hiện logic hiên – sân – nhà hoặc giếng trời – lõi xanh – không gian đệm trong nhà ở đô thị;
Áp dụng mô hình biến hình tổ chức: Không gian có thể chuyển đổi công năng theo mùa, theo thời điểm trong ngày,…
3.1.3 Lớp thứ ba: Tinh thần (Cultural – Symbolic Translation)
Đây là lớp trừu tượng nhất nhưng quan trọng nhất, bao gồm cảm xúc, biểu tượng, ký ức, tập quán và những khía cạnh phi vật chất của văn hóa. Nó thể hiện trong cảm giác “thân thuộc”, trong “không khí” của không gian, và trong niềm tự hào văn hóa của cộng đồng cư trú.
Lớp tinh thần là tầng sâu nhất và khó nắm bắt nhất: Cảm thức truyền thống, biểu tượng văn hóa, ý niệm tập thể, ý nghĩa linh thiêng. Đây là nơi kiến trúc kết nối ký ức với cảm xúc, giúp công trình có tính bản địa nội tại chứ không chỉ bề ngoài.
Trong quá trình nghiên cứu thiết kế cần xem xét các yếu tố:
Ứng dụng khái niệm “Place Attachment” (Gắn bó nơi chốn): Thiết kế nên hướng đến cảm giác thuộc về của cộng đồng;
Tái tạo biểu tượng văn hóa chuyển hóa: Có thể là hình ảnh thân thuộc như cây cau trước hiên, cây đa – giếng nước – sân đình,… là dấu hiệu của gốc gác làng quê…;
Vận dụng tâm lý không gian học: Ánh sáng, vật liệu, chiều sâu thị giác tạo nên cảm giác an trú và thiêng liêng.
Từ những nội dung đề xuất ở trên, có thể tóm tắt như sau:
3.2 Tương tác giữa các lớp chuyển hóa
Hình 1: Sơ đồ tư duy của mô hình – Nguồn: Tác giả
Chiều tương tác giữa ba lớp chuyển hóa
Thay vì ba tầng tách biệt, có thể hình dung mô hình như một ma trận kết nối động, nơi mỗi lớp vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm tiếp nhận của các ý tưởng kiến trúc.
Chiều từ dưới đi lên: Từ Hình thức → Nguyên lý → Tinh thần
Bắt đầu từ những yếu tố thân thuộc, vật liệu, hình ảnh, bề mặt,… KTS triển khai thành các cách thức tổ chức không gian, gửi gắm ý tưởng,… để đi đến việc kích hoạt cảm xúc, biểu tượng, ký ức.
Ví dụ: Mái ngói đỏ → Tổ chức không gian theo kiến trúc truyền thống (3 gian, 5 gian,…) → Gợi cảm thức sum vầy, đoàn tụ.
Chiều tương tác này có thể áp dụng khi thiết kế công trình có yêu cầu nhận diện bản sắc rõ nét hoặc có yếu tố công cộng.
Chiều từ trên đi xuống: Từ Tinh thần → Nguyên lý → Hình thức
Xuất phát từ một biểu tượng ý niệm – như sự khiêm nhường, dân chủ, cộng sinh,… KTS tìm nguyên lý không gian phù hợp để biểu đạt ý tưởng thiết kế,… rồi mới đi đến việc định hình hình thức bên ngoài.
Ví dụ: Tinh thần “đất mẹ nuôi con” → Tổ chức không gian như lòng đất mở ra mang ý nghĩa nuôi nấng, bao dung, che chở, đón về,…→ dùng vật liệu thô mộc, mái dốc, đất nện,…
Chiều tương tác này có thể áp dụng khi sáng tác theo “ý niệm kiến trúc” hoặc phát triển từ câu chuyện văn hóa – lịch sử.
Chiều ngang: Lớp – lớp tác động qua lại theo ngữ cảnh
Hình thức có thể kích hoạt tinh thần (ví dụ: Lam tre tạo ánh sáng “linh thiêng”);
Nguyên lý có thể làm thay đổi hình thức (ví dụ: Giếng trời yêu cầu thay đổi bố cục mặt bằng);
Tinh thần có thể bị bóp méo nếu hình thức diễn đạt sai lệch (ví dụ: Mái chóp “giả cổ” gây phản cảm);
Chiều tương tác này có thể áp dụng trong phân tích phản biện – nghiên cứu giảng dạy – chỉnh sửa hoàn thiện phương án thiết kế.
Hình 2: Các sơ đồ tác động – Nguồn: Tác giả
Từ sơ đồ trên, có thể đưa một vài gợi ý sử dụng chiều tương tác:
Sự tương tác giữa các lớp không chỉ giúp KTS sáng tác có chiều sâu, mà còn mở ra khả năng phản biện mềm đối với những công trình chưa hoàn thiện. Nó cho phép ta soi lại một thiết kế và đặt câu hỏi để kiểm chứng: Liệu lớp hình thức có gợi đúng tinh thần không? Nguyên lý có phục vụ tốt ý niệm biểu tượng không? Và khi lớp tinh thần mờ nhạt, ta có thể “đi ngược” lại lớp nguyên lý để điều chỉnh?…
3.3 Phân tích một số công trình kiến trúc dựa vào mô hình lý thuyết “Ba lớp chuyển hóa”
3.3.1 Dinh Thống Nhất (Dinh Độc Lập) – KTS Ngô Viết Thụ
Phân tích theo “Ba lớp chuyển hóa”


Từ những phân tích ở trên, có thể nêu ra các ứng dụng của mô hình “Ba lớp chuyển hóa”:
Trong thiết kế kiến trúc: Giúp KTS định vị mức độ tiếp biến truyền thống theo tầng biểu đạt rõ ràng, tránh mơ hồ hoặc thiên lệch;
Trong phân tích – phản biện công trình: Đóng vai trò như bộ tiêu chí học thuật để đánh giá chiều sâu bản sắc của công trình đương đại;
Trong đào tạo KTS: Là mô hình trực quan, dễ giảng dạy và truyền tải khái niệm bản địa học trong thiết kế;
Trong phục dựng – sáng tạo văn hóa bản địa: Hỗ trợ việc phân tách lớp truyền thống nào cần giữ nguyên, lớp nào có thể sáng tạo.
3.3.2 Đài tưởng niệm Bắc Sơn (Hà Nội) – KTS Lê Hiệp
Phân tích theo “Ba lớp chuyển hóa”
Hình 4: Đài tưởng niệm Bắc Sơn – Nguồn: Tác giả
Đánh giá tổng thể
3.3.3 Nhà Cộng đồng Suối Rè – KTS Hoàng Thúc Hào – 1+1>2
Phân tích theo “Ba lớp chuyển hóa”
Công trình sử dụng gần như hoàn toàn vật liệu địa phương và nhân lực tại chỗ, là hình mẫu tiên phong của kiến trúc cộng đồng đương đại Việt Nam. Công trình đã nhận nhiều giải thưởng quốc tế (Green Good Design, IAA 2012).
Hình 5: Nhà cộng đồng Suối Rè – Nguồn: 1+1>2
Đánh giá tổng thể
3.3.4 Nhà ở Bắc Hồng – KTS Phạm Quốc Đạt – LAB Concept
Phân tích theo “Ba lớp chuyển hóa”
Đánh giá tổng thể
Công trình đạt Giải Vàng – Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia 2018
Hình 6: Nhà ở Bắc Hồng – Nguồn: tapchikientruc
3.4 Ứng dụng của mô hình lý thuyết “Ba lớp chuyển hóa” trong thực tiễn
Từ những phân tích ở trên, có thể nêu ra các ứng dụng của mô hình “Ba lớp chuyển hóa”:
-Trong thiết kế kiến trúc: Giúp KTS định vị mức độ tiếp biến truyền thống theo tầng biểu đạt rõ ràng, tránh mơ hồ hoặc thiên lệch;
-Trong phân tích – phản biện công trình: Đóng vai trò như bộ tiêu chí học thuật để đánh giá chiều sâu bản sắc của công trình đương đại;
-Trong đào tạo KTS: Là mô hình trực quan, dễ giảng dạy và truyền tải khái niệm bản địa học trong thiết kế;
-Trong phục dựng – sáng tạo văn hóa bản địa: Hỗ trợ việc phân tách lớp truyền thống nào cần giữ nguyên, lớp nào có thể sáng tạo.
- Thay lời kết
“Ba lớp chuyển hóa” là một khái niệm lý thuyết giúp tái định nghĩa cách tiếp cận truyền thống không phải là quá khứ đóng băng mà là một kho chất liệu sống động, linh hoạt và có thể được sáng tạo tiếp tục trong thiết kế kiến trúc hiện đại.
Việc phân tầng “Hình thức – Nguyên lý – Tinh thần” cho phép KTS và nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn bản chất của bản sắc kiến trúc; thao tác sáng tạo có định hướng, không mơ hồ; giao tiếp với cộng đồng bằng ngôn ngữ không gian giàu ký ức và ý nghĩa.
Trong các bài nghiên cứu tiếp theo, mô hình lý thuyết này sẽ tiếp tục được kiểm chứng và triển khai vào các thể loại công trình cụ thể như: Nhà ở, Công trình cộng đồng, Bảo tàng và Kiến trúc tưởng niệm.
Ths. Kts Phạm Đăng Tuấn Lâm
Khoa Công nghệ – Kỹ thuật, Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 08-2025)
Tài liệu tham khảo
- Trần Mạnh Cường (2022): Biểu hiện tính bản địa trong kiến trúc đương đại Việt Nam – Luận án Tiến sĩ, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội;
- Phạm Phú Cường, Nguyễn Song Hoàn Nguyên, Nguyễn Ngọc Sơn (2024): Các xu hướng tiêu biểu của kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, https://vietnamarchi.vn/cac-xu-huong-tieu-bieu-cua-kien-truc-hien-dai-mien-nam-viet-nam-giai-doan-1954-1975–2179.html
- Doãn Đức (2021): Xu hướng thể hiện tính truyền thống trong kiến trúc hiện đại Việt Nam, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/xu-huong-the-hien-tinh-truyen-thong-trong-kien-truc-hien-dai-viet-nam.html;
- Hương Giang (2020): Tâm lý học về không gian nội thất tác động tới hành vi của chúng ta như thế nào? https://kienviet.net/2020/6/18/tam-ly-hoc-ve-khong-gian-noi-that-tac-dong-den-hanh-vi-cua-chung-ta-nhu-the-nao;
5.Tùng Lâm (2024): Tiếp biến và kiến tạo giá trị mới trong phát triển kiến trúc Việt Nam, https://nguoidothi.net.vn/tiep-bien-va-kien-tao-gia-tri-moi-trong-phat-trien-kien-truc-viet-nam-46089.html
- Mel Schenck (2022): Southern Vietnamese Modernist Architecture: Mid-Century Vernacular Modernism, NXB Thế giới Hà Nội;
- Nguyễn Quốc Thông (2025): Xu hướng kiến trúc hiện đại dân tộc qua các kỳ giải thưởng kiến trúc quốc gia, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/xu-huong-kien-truc-hien-dai-dan-toc-qua-cac-ky-giai-thuong-kien-truc-quoc-gia.html;
- Lê Trần Xuân Trang (2019): Diễn giải truyền thống trong kiến trúc Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐH Kiến trúc TP HCM;
- Nguyễn Mạnh Trí, Trương Ngọc Lân (2024): Khai thác và kế thừa truyền thống trong kiến trúc Việt Nam sau đổi mới, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/khai-thac-va-ke-thua-truyen-thong-trong-kien-truc-viet-nam-sau-doi-moi.html;
- Nguyễn Quốc Tuân, Hoàng Thúc Hào (2024): Bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống trong phát triển kiến trúc Việt Nam, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/bao-ton-phat-huy-gia-tri-truyen-thong-trong-phat-trien-kien-truc-viet-nam.html