Home / KHOA HỌC CÔNG NGHỆ / Nghiên cứu xác định nguyên nhân chính và phân vùng nguy cơ trượt lở đất cho khu vực miền núi thành phố Đà Nẵng

Nghiên cứu xác định nguyên nhân chính và phân vùng nguy cơ trượt lở đất cho khu vực miền núi thành phố Đà Nẵng

RESEARCH TO IDENTIFYING THE MAIN CAUSES AND BUILDING LANDSLIDES RISK MAPPING FOR MOUNTAINOUS AREA OF DA NANG CITY

Hoàng Ngọc Tuấn, Đặng Thị Nga, Nguyễn Ngọc Vinh, Đoàn Tiến Đạt, Lê Thị Sương

Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên

Tóm tắt: Trượt lở đất là một trong những loại hình thiên tai rất khó dự báo trong thực tế và khi xảy ra thì thường gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Để có thể chủ động hơn trong công tác dự báo, cảnh báo đối với loại hình thiên tai này thì chúng ta cần phải biết được các nguyên nhân chủ yếu gây nên trượt lở đất, để từ đó có thể phân vùng nguy cơ trượt lở đất theo các cấp độ khác nhau làm cơ sở đánh giá hiện trạng, quy hoạch cơ sở hạ tầng, bố trí dân cư hợp lý là rất quan trọng. Bài báo này giới thiệu kết quả xác định nguyên nhân chính cũng như trọng số các nhân tố tác động gây trượt lở đất để từ đó phân vùng nguy cơ trượt lở đất trên cơ sở tích hợp phương pháp phân tích thứ bậc AHP, GIS và phương pháp thống kê. Kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trong quy hoạch cơ sở hạ tầng và bố trí dân cư, phòng chống thiên tai của thành phố Đà Nẵng đến 2030 và định hướng đến 2045.

Từ khóa: Trượt lở đất, bản đồ phân vùng, AHP, viễn thám, GIS, Đà Nẵng.

Abstract: Landslides are one of the challenging unpredictable natural disasters, and when they occur, they often result in significant deaths and property damage. It is necessary to identify the main causes of landslides, which allows us to be more proactive in terms of forecasting, and warning for this disaster. Besides, classifying landslide risk into different levels, which is crucial for assessing the current situation, planning infrastructure and arranging residential areas appropriately. This paper presents the results of identifying the primary causes and landslide weighting factors with the aim of building landslide risk mapping based on the approach that integrates the Analytic Hierarchy Process (AHP), Geographic Information Systems (GIS), and statistical methods. The results have been applied to infrastructure and residential planning as well as natural disaster prevention in Da Nang City until 2030 and orientation to 2045.

Keywords: Landslide, landslide risk map, AHP, Remote sensing, GIS, Đa Nang.

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đà Nẵng là thành phố trung tâm và lớn nhất khu vực miền Trung Tây Nguyên với tổng diện tích tự nhiên 1.285,43km2 bao gồm 06 quận (quận Hải Châu, quận Thanh Khê, quận Sơn Trà, quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu, quận Cẩm Lệ) và 02 huyện (huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa). Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8; địa hình đa dạng, bị chia cắt mạnh với 3 dạng địa hình chính: (1) địa hình núi cao (độ cao trung bình từ 500 – 1.000m); (2) địa hình đồi gò (độ cao trung bình từ 50 – 100m); (3) địa hình đồng bằng. Về độ dốc, hơn 40% diện tích của Đà Nẵng có độ dốc trên 30%, không phù hợp để phát triển đô thị và chỉ có 38,4% đất có độ dốc dưới 10% không bị hạn chế phát triển. Do độ dốc lớn nên trong mùa mưa, vùng sườn đồi dễ bị trượt, sạt lở đất, … Trong 10 năm trở lại đây, Đà nẵng ghi nhận nhiều vụ sạt lở núi và mái taluy đường giao thông, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Có thể kể đến một số vụ như: Ngày 11/12/2018, sau 2 ngày mưa lớn đã gây sạt lở nghiêm trọng tại một số tuyến đường lên núi Sơn Trà, riêng tại bán đảo Sơn Trà có hơn 20 điểm sạt lở, trong đó tuyến đường Tiên Sa đến ngã ba Bãi Bắc là điểm sạt lở nặng nhất với 16 điểm. Năm 2019, sạt lở đất dọc tuyến Cầu Bến Hói đi qua khu dân cư Thôn Thạch Bồ xã Hòa Khương dài 100m; sạt lở đoạn đường khoảng 2km tại tuyến đường ra khu vực Hố Sâu và Đại đội C4 (bán đảo Sơn Trà). Tháng 9/2020, cơn bão số 5 gây mưa lớn khiến nhiều khu vực vùng đồi núi ở các xã thuộc huyện Hòa Vang có nguy cơ sạt lở đất, trong đó tuyến đường ĐT 601 bị sạt lở, gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Năm 2022, trên địa bàn đã có 104 điểm sạt lở, trong đó đợt mưa lớn lịch sử ngày 14/10/2022 gây nên hàng chục vụ sạt lở đất cho khu vực nghiên cứu và huyện Hòa Vang đã trở thành điểm nóng về sạt lở đất, một số vụ sạt lở đất nghiêm trọng như: hàng ngàn ngôi mộ tại nghĩa trang núi Hòa Khê và nghĩa trang Hố Dầu (thôn An Ngãi Đông), các khu dân cư tại khu vực Hố Sâu và núi Sọ thuộc xã Hòa Sơn bị bồi lấp; nhiều khu vực, tuyến đường giao thông bị sạt lở (như ĐT 605, đường ADB5 thuộc thôn An Định, xã Hòa Bắc; tuyến đường ADB5 thuộc xã Hòa Liên, tuyến đường Quốc lộ 14G xã Hòa Phú ….. ),… Một số hình ảnh về sạt lở đất tại huyện Hòa Vang, quận Sơn Trà và quận Liên Chiểu được thể hiện ở hình dưới đây:

KH_9

Nguy cơ, hiểm họa và thiệt hại từ trượt lở đất là rất lớn, tuy nhiên vấn đề chủ động, nhận biết, phòng tránh và ứng phó đối với các loại hình thiên này còn hạn chế. Trong bài báo này, xin giới thiệu tóm tắt một số kết quả nghiên cứu về vấn đề này. Đây là một phần trong đề tài “Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp phòng chống sạt lở đất và lũ quét trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong điều kiện thời tiết cực đoan” do Viện KHTL miền Trung và Tây Nguyên thực hiện.

  1. CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở dữ liệu

– Tài liệu điều tra, thu thập về điều kiện tự nhiên, CSHT và dân cư trên địa bàn TP. Đà Nẵng

– Tài liệu khảo sát địa hình, địa chất, địa vật lý, địa chất thủy văn do Viện KHTL miền Trung và Tây Nguyên, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản thực hiện.

– Số liệu mưa của Đài KTTV khu vực Trung Trung Bộ.

– Số liệu thống kê các vị trí trượt lở đất theo không gian và thời gian xảy ra trong quá khứ.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

KH_10
Hình 2. Phương pháp xây dựng bản đồ nguy cơ trượt lở đất

Các phương pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp khảo sát, thu thập tài liệu; phương pháp phân tích thống kê; phương pháp sử dụng bản đồ, ảnh viễn thám; phương pháp phân tích thứ bậc AHP; phần mềm ArcGIS xây dựng bản đồ; phương pháp tham vấn chuyên gia.

Phương pháp AHP: là một trong những phương pháp ra quyết định đa mục tiêu được đề xuất bởi Thomas L. Saaty – một nhà toán học người gốc Irắc vào năm 1980. AHP là một phương pháp định lượng, dùng để sắp xếp các phương án quyết định và chọn một phương án thỏa mãn các nhân tố cho trước. Dựa trên nguyên tắc so sánh cặp, phương pháp AHP có thể được mô tả với 3 nguyên tắc chính, đó là phân tích, đánh giá và tổng hợp. AHP trả lời các câu hỏi như “Chúng ta nên chọn phương án nào?” hay “Phương án nào tốt nhất?” bằng cách chọn một phương án tốt nhất thỏa mãn các nhân tố của người ra quyết định dựa trên cơ sở so sánh các cặp phương án và một cơ chế tính toán cụ thể. Phương pháp AHP có nhiều ưu điểm so với các phương pháp ra quyết định đa mục tiêu khác như: AHP định hướng vào việc xác định mức độ quan trọng của từng nhân tố, đó là điểm yếu của nhiều phương pháp ra quyết định đa nhân tố; chính vì vậy, AHP có thể kết hợp với các phương pháp khác dễ dàng để tận dụng được lợi thế của mỗi phương pháp trong giải quyết vấn đề. AHP có thể kiểm tra tính nhất quán trong cách đánh giá của người ra quyết định. Quy trình phân tích theo thứ bậc dễ hiểu, có thể xem xét nhiều nhân tố nhỏ đồng thời với các nhóm nhân tố và có thể kết hợp phân tích cả yếu tố định tính lẫn định lượng. Trên thế giới và tại Việt Nam, việc ứng dụng AHP trong việc ra quyết định được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt là các quyết định liên quan đến kinh tế, xã hội và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kĩ thuật.

Phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) được thực hiện theo các bước như sau: (1) Xác định mức độ ưu tiên cho các nhân tố; (2) Tính toán trọng số cho các nhân tố; (3) Tính độ ưu tiên của các phương án theo từng nhân tố; (4) Tính điểm cho các phương án và lựa chọn

  1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Xác định nguyên nhân chính gây nên trượt lở đất

Trượt lở đất là tổ hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra trong đó có 7 nhân tố chính và được thể hiện như sau:

 fT = f (Độ dốc địa hình, phân cắt sâu, phân cắt ngang, địa chất công trình, mưa, thảm phủ rừng, địa chất thủy văn, …).

Sau đây sẽ phân tích mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến trượt lở đất.

(1) Yếu tố độ dốc địa hình: là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong phát sinh trượt lở đất, tại khu vực nghiên cứu, trượt lở đất thường xảy ra ở độ dốc địa hình (15°÷32)°, ngoài ra, trượt lở cũng xảy ra ở độ cao địa hình <186m và (186÷521)m.

(2) Yếu tố mật độ phân cắt sâu địa hình: Trượt lở đất thường xảy ra tại khu vực có mật độ phân cắt sâu ở mức độ (181 ÷ 468) với tỷ lệ lên tới 80,77% và mật độ khoảng 0,17 điểm/Km2.

(3) Yếu tố mật độ phân cắt ngang địa hình: Trượt lở đất thường xảy ra với mật độ phân cắt ngang ở mức (0-3)Km/Km2 với tỷ lệ lên tới 92,94% diện tích và mật độ khoảng 0,0876 điểm/Km2.

(4) Yếu tố địa chất (thạch học, lớp vỏ phong hóa và đứt gãy địa chất): Trượt lở xảy ra chủ yếu trong vỏ phong hóa trên các nhóm đá magma xâm nhập axit – trung tính và nhóm đá trầm tích lục nguyên giàu alumosilicat, đây là hai nhóm đá chiếm diện tích lớn trên toàn diện tích khu vực, số điểm trượt lở trên hai nhóm đá này chiếm 99% tổng số điểm trượt lở của toàn khu vực điều tra. Khu vực xảy ra trượt lở có các hệ thống đứt gãy phát triển mạnh, đặc biệt là các đứt gãy trẻ phương á vĩ tuyến, kéo theo các hệ thống khe nứt dày đặc làm cho các đá bị dập vỡ, nứt nẻ mạnh mẽ, biến vị trung bình, khu vực có lớp vỏ phong hóa phát triển dày (>20m) trạng thái dẻo mềm đến dẻo cứng, khả năng liên kết kém; độ dốc sườn địa hình tự nhiên >25o. Bên cạnh đó, trượt lở thường xảy ra ở hệ thống phá hủy kiến tạo đứt gãy phương tây bắc – đông nam (TB-ĐN) chủ yếu phát triển ở khu vực phía tây bắc thuộc huyện Hòa Vang; đây là các hệ thống đứt gãy kéo theo của đứt gãy Đà Nẵng – Khe Sanh và hệ thống phá hủy kiến tạo đứt gãy phương Á kinh tuyến gồm các hệ thống đứt gãy kéo theo của đứt gãy A Lưới – Đăk P’Ring. Khu vực thành phố Đà Nẵng, hệ đứt gãy Á kinh tuyến bao gồm 2 hệ thống chính là đứt gãy tây nam sông Nam và sông Bắc – Túy Loan.

(5) Yếu tố địa chất thủy văn: Trượt lở xảy ra chủ yếu ở vùng không có khả năng khai thác nước (chiếm 68,3%); các thành tạo magma xâm nhập được coi là thành tạo địa chất rất nghèo nước bao gồm các phức hệ: Đại Lộc (γaD1 đl); Cha Val (νaT3 cν); Hải Vân (γaT3 hν); Bà Nà (γK-œ bn). Vùng này phân bố chủ yếu ở khu vực dãy núi Hải Vân, phía bắc thành phố Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà, phía tây nam. Tiếp theo là vùng Holocen và Devon dưới gồm có hệ tầng Tân Lâm (d1) phân bố từ sông Cu Đê chạy dọc theo hai cánh của đứt gãy Cu Đê – La Dút theo phương gần đông tây (chiếm 15,4%).

(6) Yếu tố mưa: là một yếu tố quan trọng, có tác động phát sinh trượt lở đất, phần lớn các vụ trượt lở đất tại Đà Nẵng xảy ra vào mùa mưa, từ tháng 9 đến tháng 12 của những năm mưa nhiều, tổng lượng mưa lớn. Các vụ trượt lở đất thường xuất hiện trùng hoặc sau 01 ngày so với thời gian xuất hiện mưa 1 ngày lớn nhất trong tháng và trước khi xảy ra trượt lở đất trên khu vực đã có xảy ra mưa kéo dài trên 5 ngày. Hình thái mưa gây trượt lở đất ở Đà Nẵng chủ yếu là hình thái mưa dạng 1 (trước đó 5 ngày mưa nhỏ, ngày xảy ra trượt lở đất có mưa lớn) dạng 2 ( mưa liên tục 5 ngày trước đó, trong đó trước ngày xảy ra trượt lở đất 3 ngày đã xuất hiện một trận mưa tương đối lớn). Về ngưỡng mưa gây trượt lở, kết quả phân tích quan hệ tương quan giữa lượng mưa ngày xảy ra trượt lở đất với lượng mưa 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày, 6 ngày, 7 ngày, 10 ngày và 15 ngày trước ngày xảy ra trượt lở cho thấy tương quan giữa lượng mưa ngày xảy ra trượt lở đất và lượng mưa 5 ngày trước đó là lớn nhất, nghiên cứu đã lựa chọn tính toán sử dụng lượng mưa 6 ngày (05 ngày trước khi xảy ra trượt lở đất, ngày xảy ra trượt lở đất) là lượng mưa có khả năng gây ra trượt lở đất cho khu vực nghiên cứu. Kết quả thống kê phân tích lượng mưa 6 ngày (05 ngày trước khi xảy ra trượt lở đất và ngày xảy ra trượt lở đất) tại các trạm đo mưa trên địa bàn Đà Nẵng ứng với các trận trượt lở đất đã xảy ra cho thấy với các trận mưa có tổng lượng mưa ≥ 480mm/6 ngày hoặc mưa 1 ngày ≥ 210mm và tổng lượng mưa 5 ngày trước đó phải ≥ 302mm có khả năng gây ra trượt lở đất.

(7) Yếu tố thảm phủ: Trượt lở đất xảy ra chủ yếu ở các khu vực rừng trồng với mật độ là 0,16 điểm/km2 và tiếp theo là các khu vực rừng tái sinh với mật độ 0,126 điểm/km2. Các vùng này chủ yếu nằm ở phía tây, tây bắc huyện Hòa Vang (xã Hòa Phú, Hòa Bắc, Hòa Sơn, Hòa Ninh), phía bắc quận Liên Chiểu (Đèo Hải Vân) và bán đảo Sơn Trà.

Trên cơ sở dữ liệu về địa hình, địa mạo (phân cắt sâu, phân cắt ngang), địa chất, địa chất thủy văn, mưa và thảm phủ,… nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích thống kê và phân tích thứ bậc AHP để xác định trọng số cho các nhân tố chính và tìm ra bộ thông số AHP phù hợp cho khu vực nghiên cứu như sau:

KH_113.2. Xây dựng bản đồ đơn nhân tố chủ yếu gây trượt lở đất

Ứng dụng công cụ ArcGIS để xây dựng các bản đồ đơn nhân tố cho các nhóm nhân tố chủ yếu gây ra trượt lở đất theo các mức từ rất thấp đến rất cao như tại bảng 1.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố độ dốc: Trên cơ sở bản đồ độ cao DEM được xây dựng từ điểm cao độ khu vực nghiên cứu do Cục bản đồ cấp năm 2018, đã sử phần mềm ArcGIS để tính toán độ dốc cho khu vực và công cụ Reclassify phân chia mức độ ảnh hưởng theo các mức nguy cơ đã xây dựng.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố lượng mưa: Để xây dựng bản đồ phân vùng mưa gây trược lở đất, nghiên cứu sử dụng số liệu mưa tại 10 trạm trong và lận cân khu vực nghiên cứu, gồm 6 trạm đo mưa có chuỗi số liệu quan trắc dài như trạm Đà Nẵng, Hòa Bắc, Hòa Trung và Đồng Nghệ; trạm Ái Nghĩa (thuộc tỉnh Quảng Nam), trạm Nam Đông (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế); và 4 trạm Vrain như Suối Lương (Liên Chiểu), Suối Đá (Sơn Trà), Hòa Hải (Ngũ Hành Sơn), Hòa Phú Thành (Hòa Phú). Kết quả phân tích và đánh giá ảnh hưởng lượng mưa 6 ngày (05 ngày trước khi xảy ra trượt lở đất và ngày xảy ra trượt lở đất) là lượng mưa có khả năng gây ra trượt lở đất cho khu vực, nghiên cứu đã sử dụng lượng mưa này để xây dựng bản đồ phân cấp mưa. Các bước tính toán phân cấp mưa gồm: (1) Xác định tần suất lượng mưa 6 ngày gây ra trượt lở đất; (2) Xác định lượng mưa 6 ngày max ứng với tần suất mưa 6 ngày max gây trượt lở đất tại các trạm khí tượng và đo mưa khu vực lân cận; (3) Sử dụng số liệu lượng mưa 6 ngày gây ra trượt lở đất tại các khu vực đã thu thập được để xác định lượng mưa ứng với các cấp độ rủi ro từ rất thấp, thấp, trung bình, cao và rất cao. Kết hợp số liệu mưa 6 ngày max tương ứng tại các trạm lân cận đã xác định được ở bước (2) để phân vùng mưa tương ứng với các cấp mưa.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố phân cắt ngang, phân cắt sâu: Từ bản đồ độ cao DEM, sử dụng công cụ trong ArcGIS để trích xuất lớp sông suối, sau đó sử dụng lớp sông suối này kết hợp với DEM đã có để tính toán các chỉ số phân cắt sâu, phân cắt ngang. Xây dựng bản đồ cho yếu tố phân cắt ngang, phân cắt sâu theo 5 mức nguy cơ từ “Rất thấp” đến “Rất cao”.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố địa chất thủy văn: Kế thừa từ bản đồ Tài nguyên nước dưới đất đã được xây dựng cho thành phố Đà Nẵng từ dự án “Biên hội, thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất, tỷ lệ 1:200,000 cho các tỉnh trên toàn quốc” do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Quốc gia thực hiện năm 2018, nhóm tác giả đã sử dụng ArcGis số hóa lại các lớp đối tượng trong bản đồ, từ đó biên tập thành các dữ liệu Raster phục vụ nghiên cứu; và bản đồ phân cấp cho yếu tố địa chất thủy văn được xây dựng theo 5 cấp từ “Rất thấp” đến “Rất cao”.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố thạch học, vỏ phong hóa: Kế thừa từ bản đồ địa chất và phân vùng tiềm năng đã xây dựng trên địa bàn năm 2012, nhóm tác giả đã sử dụng ArcGis số hóa lại các lớp đối tượng trong bản đồ, từ đó biên tập thành các dữ liệu Raster phục vụ nghiên cứu; và bản đồ phân cấp theo yếu tố thạch học, vỏ phong hóa được xây dựng theo 5 cấp từ “Rất thấp” đến “Rất cao”.

– Xây dựng bản đồ phân cấp cho yếu tố thảm phủ thực vật: Sử dụng nguồn ảnh vệ tinh từ website Land Viewer và kiểm tra với bản hiện trạng sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu, kết hợp công nghệ viễn thám và công cụ GIS để phân vùng và xây dựng bản đồ cho yếu tố thảm phủ thực vật dựa trên chỉ số NDVI theo 5 mức phân cấp: rất thấp (0,8-1), thấp (0,5-0,8), trung bình (0,2-0,5), cao (0-0,2) và rất cao (-1-0).

Các bản đồ đơn nhân tố gây nên trượt lở đất tại Đà Nẵng được xây dựng như sau:

KH_12

3.3. Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất cho thành phố Đà Nẵng

Với trọng số nhân tố và bản đồ đơn nguyên tố đã xây dựng, sử dụng phép phân tích Weight overlay trong phần mềm ArcGis chồng các lớp bản đồ đơn nguyên tố để xây dựng bản đồ nguy cơ trượt lở đất cho Đà Nẵng. Kết quả xây dựng bản đồ như sau:

KH_13
Hình 11. Bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất thành phố Đà Nẵng

Kết quả tính toán xây dựng bản đồ nguy cơ trượt lở đất thành phố Đà Nẵng (hình 11) cho thấy, mức nguy cơ trượt lở đất chủ yếu là mức trung bình và mức cao, xảy ra tại 3 quận/ huyện là Hòa Vang, Sơn Trà và Liên Chiểu. Trong đó:

+ Tại huyện Hòa Vang: Vùng nguy cơ trượt lở đất ở mức trung bình chiếm 50,49% tổng diện tích toàn huyện; vùng nguy cơ trượt lở đất cao chiếm 20,57%, tập trung ở các xã thuộc như Hòa Bắc, Hòa Ninh, Hòa Phú và Hòa Khương.

+ Tại quận Sơn Trà: Vùng nguy cơ trượt lở đất ở mức trung bình chiếm 50,21% tổng diện tích toàn quận; vùng nguy cơ trượt lở đất cao chiếm 19,69%, tập trung chủ yếu ở bán đảo Sơn Trà thuộc phường Thọ Quang.

+ Tại quận Liên Chiểu: Vùng nguy cơ trượt lở đất ở mức trung bình chiếm 35,26% tổng diện tích toàn quận; vùng nguy cơ trượt lở đất cao chiếm 10,64%, tập trung chủ yếu ở phường Hòa Hiệp Bắc và một ít tại phường Hòa Khánh Nam.

Trên cơ sở phân vùng có nguy cơ xảy ra trượt lở, tiến hành chồng lắp bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất với các bản đồ dân cư, giao thông, công trình trọng điểm; lưu vực sông suối,… để xác định các diện tích ứng với các cấp nguy cơ trượt lở đất tại khu vực nghiên cứu. Kết quả được thể hiện tại các bảng và hình dưới đây.

KH_14

KH_15

KH_16
Hình 14. Diện tích ứng với các cấp nguy cơ trượt lở đất tại quận Liên Chiểu
  1. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1. KẾT LUẬN

– Nghiên cứu đã xác định được 7 nguyên nhân chính gây nên trượt lở đất cũng như trọng số của từng nhân tố trong tổ hợp, lần lượt: Độ dốc (32%), mưa (21%), thạch học vỏ phong hóa (13%), phân cắt ngang (12%), phân cắt sâu (12%), thảm phủ thực vật (6%) và địa chất thủy văn (5%).

– Nghiên cứu đã ứng dụng hướng tiếp cận mới trên cơ sở tích hợp phương pháp phân tích thứ bậc AHP vào phần mềm ArcGIS để xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất theo tổ hợp các nhân tố chủ yếu gây trượt lở đất cho khu vực miền núi thành phố Đà Nẵng.

– Đã xây dựng được bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất cho khu vực miền núi của thành phố Đà Nẵng với tỷ lệ 1/10.000

– Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các khu vực có nguy cơ trượt lở đất cao, tập trung tại các xã Hòa Bắc, Hòa Ninh, Hòa Phú và Hòa Khương thuộc huyện Hòa Vang (chiếm 20,57%); bán đảo Sơn Trà thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà (chiếm 19,69%); phường Hòa Hiệp Bắc và một phần diện tích phường Hòa Khánh Nam thuộc quận Liên Chiểu (chiếm 10,64%).

4.2. KIẾN NGHỊ

Tại các khu vực có nguy cơ trượt lở đất cao trong thời gian tới cần phải: Rà soát đánh giá mức độ an toàn đối với khu vực dân cư đang sinh sống và khu vực quy hoạch mới thuộc vùng có nguy cơ cao bị trượt lở đất, tập trung tại huyện Hòa Vang, bán đảo Sơn Trà (quận Sơn Trà) và khu vực đèo Hải Vân (quận Liên Chiểu). Cần xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ trượt lở đất chi tiết hơn ở tỷ lệ 1/5000 và đào tạo, tập huấn, hướng dẫn người dân kỹ năng nhận biết về phòng tránh thiên tai nói chung và trượt lở đất, lũ quét nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, (2019). Báo cáo thuyết minh hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 khu vực thành phố Đà Nẵng.

[2]. Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên, (2023). Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp phòng chống sạt lở đất và lũ quét trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong điều kiện thời tiết cực đoan”.

[3]. Hoàng Ngọc Tuấn, Võ Thị Tuyết, (2021). Nghiên cứu xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ thủy lợi.

[4]. Quyết định 1440/QĐ-UBND ngày 26 tháng 5 năm 2022 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê “Kế hoạch Phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng’’.

[5]. Quyết định số 187/QĐ-UBND ngày 01 tháng 02 năm 2023 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc ban hành “Đề án Xây dựng thành phố Đà Nẵng an toàn trong thiên tai giai đoạn 2022 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045″.

[6]. Saaty, T.L, Decision making with the Analytic Hierarchy Process, Int. J. Services, Sciences, 1, pp.83-89, 2008.

[7]. Saaty, T.L. and Vargas L.G., Decision making in Economic, Political, Social, and Technplogycal Environment with the Analytic Hierarchy Process for Decisions in a Complex World. RWS Publications, Pittsburgh, 1995.

[8]. Zhaoyang Wang, Landslide Monitoring Point Optimization Deployment Based on Fuzzy Cluster Analysis, Journal of Geoscience and Environment Protection, 2017, 5, 118-122.

9]. George Gaprindashvili, A New Statistic Approach towards Landslide Hazard Risk Assessment, International Journal of Geosciences, 2014, 5, 38-49.

Check Also

Ứng dụng mô hình WEAP để dự báo quá trình dòng chảy đến cho một số hồ chứa lớn của tỉnh Đắk Lắk trong điều kiện biến đổi khí hậu

AN APPLICATION OF WEAP MODEL IN FORECASTING THE FLOW PROCESS FOR SOME LARGE RESERVOIRS OF …