Tuổi thơ tôi gắn liền với những ngôi chợ quê. Tôi nhớ, rất nhớ những ngày xách làn cùng mẹ đi chợ. Mẹ nắm tay tôi đi giữa màu xanh của rau đổ tràn từ những chiếc thúng, giữa màu đỏ, màu vàng hoa trái đang rực lên trên đôi tay sạm nắng của các cô bác nông dân. Chợ không chỉ là nơi mua bán, ở đó, tôi nhìn thấy được nỗi buồn của những mùa vụ thất thu hay niềm vui của một mùa sung túc. Tôi nhìn thấy hạnh phúc trong mắt mẹ tôi khi mua được từ những con tép đang tung mình trên một chiếc rổ tre. Ở chợ, màu xanh của rau, màu rực rỡ của hoa trái truyền sang tôi một tình yêu cuộc sống giản dị nhưng mãnh liệt biết bao.
Ở Bạc Liêu nơi tôi lớn lên ngày ấy, chợ chạy song song với dòng sông hiền hoà, lấp lánh ánh nắng. Chợ không chỉ họp ở trên bờ, mà còn ở trên sông, trên những chiếc thuyền bập bềnh sóng. Những con thuyền ấy đã chở hy vọng và hương sắc của cuộc sống đến cho tôi, bằng việc ắp đầy lòng thuyền những hoa, những trái. Đứa trẻ ngày ấy là tôi đã trốn mẹ ngồi hàng giờ trên bờ sông, ngắm nhìn những mùa hoa trái soi mình từ mạn thuyền xuống mặt nước yên ả của dòng sông. Tôi ước rằng mình là một trong những đứa trẻ đang tung mình khỏi thuyền, khỏa tay bơi trên dòng sông lấp lánh, những tràng cười giòn giã bay lên.
Chợ đàn ông ở Bangladesh
Có ai đó nói rằng, đến với chợ, ta đến với một nền văn hoá. Tôi thấm thía điều đó hơn khi đi chợ ở Bangladesh, nơi tôi đã sống và làm việc trong thời gian bốn năm, từ năm 2002-2006. Ở thành phố Dhaka, tôi đã rất thảng thốt khi lần đầu tiên ra chợ: người bán toàn là… đàn ông. Nhiều người nhìn tôi chằm chằm, săm soi, vì tôi chỉ mặc áo sơ-mi mà không có khăn choàng. Hoá ra, phần lớn người dân ở đây theo đạo Hồi, phụ nữ cần phải tuân thủ theo những quy định khắc khe và phải lánh mặt đàn ông bất cứ khi nào có thể, vì thế công việc chợ búa đều do đàn ông lo liệu. Đàn ông Bangladesh cũng nói thách, cũng mặc cả tài tình như phụ nữ Việt, hoặc thậm chí còn hơn cả phụ nữ Việt.
Nếu ở Việt Nam, mỗi khi ra chợ, tôi thích thong thả ngắm nhìn, mua bán chậm rãi, đôi khi còn lân la hỏi người bán – các bà, các cô đứng tuổi – về việc chế biến một món thức ăn nào đó, thì ở Bangladesh, tôi phải bắt đầu giấu mình dưới chiếc khăn choàng, quan sát những gì đang diễn ra xung quanh một cách kín đáo. Những năm tôi sống ở Dhaka, thảng hoặc lắm tôi mới nhìn thấy phụ nữ đi chợ. Thường thì họ phải dùng khăn choàng để che đầu, che ngực và che cổ. Rất nhiều phụ nữ mặc áo choàng đen (burqa) kín mít từ đầu đến chân, chỉ hở đôi mắt.
Chợ thành thật ở Philippines
Khác với những ngôi chợ ở Bangladesh trầm tư và ít cười nói, tiếng cười luôn ngập tràn những ngôi chợ ở Phillipines, nơi tôi đã sống và làm việc bốn năm, từ năm 2011 đến 2015. Ở đây, cả đàn ông và phụ nữ tham gia mua bán. Họ thả sức nói chuyện, cười đùa, đôi khi vô tư cất tiếng hát vang. Phần đông người dân Philippines theo đạo Thiên Chúa, và niềm tin tôn giáo được thể hiện rõ nét ở chợ: tôi chưa hề thấy người ta cãi vã nhau ở chợ, họ nói năng từ tốn, nói thách cũng hết sức vừa phải, và hầu như không hề cân thiếu. Đến với một ngôi chợ Philippines, bạn có thể thả sức hỏi giá các sản phẩm, mà không bị người bán chèo kéo, bắt phải ngã giá, bắt phải mua.
Chợ truyền thống ở Đức
Các ghi chép của lịch sử cho thấy, Đức là dân tộc phát minh ra các phiên chợ Giáng sinh, và có lẽ vì thế, các hội chợ Giáng sinh ở Đức cũng thật độc đáo và đa dạng. Ngay từ cuối tháng 11, khắp nơi trên nước Đức ấm dần lên với sự hiện diện những ngôi chợ Giáng Sinh, được tổ chức ngoài trời. Ấm là bởi trong cái lạnh se sắt, người tham gia chợ có thể hít đầy lồng ngực hương thơm của món rượu nóng Glühwein. Ấm là bởi trong tiếng nhạc Giáng sinh vui nhộn, người người đang hội tụ để mua sắm những món trang trí Giáng sinh xinh xắn, những món quà độc đáo, cùng những món ăn làm nên bữa tiệc Giáng sinh ấm áp.
Mười bốn năm trước, tôi đã “chạm môi” vào Giáng sinh khi nhấm nháp những ngụm rượu nóng Glühwein tại chợ Giáng sinh Munich, để từ đó luôn ao ước được trở lại nơi đây. Món rượu Glühwein khá dễ nấu (với thành phần gồm rượu đỏ, đinh hương, vỏ cây quế, đường, cam cắt lát), tuy nhiên, phải đứng giữa chợ Giáng sinh chính hiệu kiểu Đức, giữa hàng trăm con người đang cúm rúm, co ro vì lạnh, cầm trên tay một chiếc cốc bốc hơi nghi ngút, hít hà mùi rượu thơm nồng nàn, rồi để thứ chất lỏng ấm nóng thơm lừng ấy tan chảy vào cơ thể, mới cảm thấy Giáng sinh đặc biệt và thiêng liêng đến thế nào.
Chợ đa văn hoá ở Bỉ
Thật lạ lùng khi năm 2016, chuyển đến sống và làm việc ở thành phố Brussels, Bỉ, tôi lại được trở về tuổi thơ khi đến với ngôi chợ Abattoir. Ở đây, tôi tìm được hầu như tất cả những gì cần thiết để nấu những món ăn Việt Nam dân dã. Dưới ánh sáng của mặt trời và trong cái se lạnh của mùa thu, tất cả căng mọng, tràn trề sức sống. Và tôi lại nghe lời thầm thì trò chuyện của hoa, của trái – về những chặng đường dài mà chúng đã phải trải qua, để lớn lên và để trưởng thành.
Chồng tôi nói rằng ở Abattoir, bạn không cần nói một ngôn ngữ nào, vì những người mua bán ở đây đến từ tứ xứ. Thánh thót quanh tôi là tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ả rập, và thảng hoặc có cả tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Nhật… Nhưng ấn tượng hơn cả là tiếng rao của những người bán hàng. Họ hát, họ rao, họ vỗ tay, họ làm đủ mọi thứ để thu hút sự quan tâm của người mua. Trong tiếng rao của họ, tôi nhận ra được vị đắng của những người lao động chân tay đang ngày đêm bươn chải để dâng cho đời bao hoa thơm, quả ngọt.
Mỗi lần đến với Abattoir, tôi mê mải mua, cho đến lúc không còn xách nổi nữa. Nhớ một lần, tôi ra về, một bên tay kéo một chiếc xe chất nặng thức ăn, bên tay kia là túi vải căng phồng những khoai lang, bí đỏ, thì là, hạt dẻ… Đang đi giữa dòng người, bất chợt xe của tôi không kéo được nữa – một chiếc bánh xe đã bị bung ra. Tôi loay hoay giữa dòng người hối hả. Bất chợt một người đàn ông cúi xuống. Ông nhẹ nhàng nâng chiếc xe của tôi lên, tháo bánh xe ra, rồi lắp lại. Rồi ông đứng lên, bước tiếp, biến mất vào dòng người. Tôi đứng đó, lời cảm ơn vẫn còn ở trong lồng ngực.
Nguyễn Phan Quế Mai
ĐT&PT sốố 74 – 75/2018