Home / QUY HOẠCH / ĐÔ THỊ HOÁ VÀ CÔNG TÁC CẢI TẠO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM

ĐÔ THỊ HOÁ VÀ CÔNG TÁC CẢI TẠO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM

1. VAI TRÒ, VỊ THẾ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

Đô thị hoá là một biểu hiện của phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia hay mỗi miền đất nước. Đô thị hoá là một quá trình biến chuyển kinh tế – xã hội – văn hoá và không gian lãnh thổ, gắn liền với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của xã hội loài người, trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi lối sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ chức bộ máy hành chính – chính trị – quân sự. Các nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội cao thì có tỷ lệ đô thị hoá cao.[4]

Quá trình đô thị hóa là quá trình phản ánh sự nâng cao vai trò, vị trí, chức năng và hiệu quả KT – XH của các đô thị trong sự vận động phát triển của xã hội loài người. Qúa trình này bao quát những thay đổi trong sự phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là  trong quần cư, trong cơ cấu nghề nghiệp và cơ cấu lao động, trong cấu trúc tổ chức không gian môi trường sống của con người. Có thể nói về bản chất đô thị hóa là một qúa trình biến động toàn diện về KT – XH, môi trường mang tính tất yếu khách quan, diễn ra rõ nét, sôi động trên phạm vi toàn cầu. Quá trình đô thị hóa chịu sự tác động của sự phát triển và vận động của lực lượng sản xuất, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất xã hội và kèm theo đó là sự phân công lao động xã hội.

Một cách hiểu khác, về khía cạnh văn hóa thì đô thị hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa nông thôn thành văn hóa đô thị (hoặc văn hóa nông nghiệp thành văn hóa công nghiệp). Về khía cạnh kinh tế thì đô thị hóa là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Qúa trình đô thị hóa là một tiến trình tất yếu song hành với lịch sử phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới… Mặt tích cực cúa quá trình đô thị hóa được thể hiện ở các khía cạnh:

+ Thúc đẩy phát triển KT – XH toàn cầu một cách rõ rệt thông qua sự tăng trưởng nhanh chóng sản phẩm xã hội GDP ở khu vực đô thị.

+ Thúc đẩy quá trình phát triển khoa học kĩ thuật, nghiên cứu và ứng dụng nhiều công nghệ mới.

+ Thúc đẩy và thể hiện nền văn minh nhân loại, nâng cao dân trí, và tạo điều kiện phát triển xã hội toàn diện.

+ Tạo điều kiện cải thiện, nâng cao và phát triển điểm dân cư nông thôn trong sự phát triển hài hòa hệ thống đô thị quốc gia.

Tuy nhiên, đô thị hóa cũng có những mặt tiêu cực của nó như: (1) sử dụng năng lượng không bền vững trong khi nhu cầu năng lượng và nước toàn cầu dự kiến sẽ tăng là 40% và 50%. (2) Quản lý chất thải rắn chiếm khoảng phần lớn ngân sách hàng năm của các thành phố ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. (3) Các tác động của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, lũ lụt và hạn hán có thể kết hợp lẫn nhau, làm cho quản lý rủi ro thiên tai trở nên phức tạp hơn. (4) Khu ổ chuột vẫn tiếp tục là một thách thức của các thành phố ở các nước đang phát triển. (5) Gia tăng bất bình đẳng trong đô thị… (6) Thể chế và pháp luật không toàn diện. (7) Quản lý đô thị chưa hiệu quả…

Hiện nay, hơn một nửa dân số thế giới sống ở các đô thị, đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên khoảng 60%. Tăng trưởng dân số đô thị đang diễn ra ở hầu hết các nước đang phát triển, với khoảng 66 triệu người di cư đến các đô thị mỗi năm. Đô thị hóa luôn là động lực quan trọng đối với phát triển kinh tế: không có quốc gia nào có được mức thu nhập cao nếu không trải qua quá trình đô thị hóa thành công. [1]

Theo báo cáo mới đây của Chương trình dân số của Liên Hợp Quốc đến năm 2050, số cư dân thành thị sẽ chiếm 2/3 trên tổng dân số toàn cầu và 80% GDP của toàn bộ nền kinh tế thế giới. Cũng theo bản báo cáo này thì hiện 20% dân số thế giới đang sinh sống và làm việc tại 600 thành phố lớn nhất hành tinh với 60% GDP toàn cầu.

Tại một số nước công nghiệp phát triển hàng đầu, tỷ lệ đô thị hoá đã khá cao, cụ thể như: Liên hiệp vương quốc Anh- 91%, Thuỵ Điển- 87%, LB Đức- 85%, Pháp- 78% , Mỹ- 77%, Canada- 76%, Australia- 89%, New Zealand- 85%, Israel- 89%, Nhật Bản- 78%. Khi nào tỷ lệ này đạt mức 70% thì tốc độ đô thị hoá sẽ chậm lại và gần như ngừng khi đã đạt ngưỡng 80%.

Tại Đông Nam Á, tỷ lệ đô thị hoá nói chung còn ở mức thấp và với sự chênh lệch khá lớn. Không kể Singapore được coi là quốc gia đô thị thì Malaysia đã đạt mức 75% tương đương với Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đạt trên 50%, Philippines- 45% còn Campuchia chỉ là 20,7%.[3]

Đô thị hóa Hàn Quốc là động lực thúc ñẩy cho nền kinh tế Hàn Quốc phát triển, là ñộng lực để thúc ñẩy việc điều chỉnh cơ cấu công nghiệp của Hàn Quốc, nó không chỉ mang lại hiệu quả điều chỉnh hướng phát triển kinh tế, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới và kích hoạt các nhu cầu khác trong nước. Trong vòng 30 năm, đất nước Hàn Quốc cơ bản đã thực hiện được tiến trình đô thị hóa, xứng tầm với các quốc gia Âu Mỹ. Con đường đô thị hóa của Hàn Quốc có thể phải dùng đến từ “mô hình rút ngắn” để miêu tả, nó không chỉ thể hiện ở thời gian, mà còn thể hiện ở cả không gian. [2]

Đô thị hóa nhanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc phát triển kinh tế mạnh mẽ chưa từng có trong suốt 30 năm qua. Đô thị hóa là chất xúc tác cho tăng trưởng GDP ở tốc độ cao, đạt xấp xỉ 10%. Dân số đô thị Trung Quốc từ dưới 20% vào năm 1978 đã tăng lên 52% vào năm 2012. Các thành phố Trung Quốc được bổ sung thêm khoảng 100 triệu dân, tốc độ tăng trưởng dân số đô thị bình quân khoảng 4%/năm, cao gấp 5 lần so với mức tăng trưởng dân số cả nước. [1]

Việt Nam đã thu được nhiều lợi ích từ quá trình đô thị hóa. Khu vực đô thị không chỉ tạo ra tăng trưởng GDP mà còn góp phần tích cực vào chuyển dịch mô hình và cơ cấu tăng trưởng trong dài hạn.Động lực tăng trưởng quốc gia cơ bản được tập trung tại khu vực đô thị do tăng trưởng mạnh mẽ công nghiệp và dịch vụ. Trong mười năm qua (2011 – 2020),cơ cấu kinh tế đất nước tiếp tục dịch chuyển sang phi nông nghiệp nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực công nghiệp, xây dựng, và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ dân số đô thị giữ tốc độ ổn định (khoảng 3%/năm). Tỉ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm nhanh từ 60% (2008) xuống còn 40% (2017). Sự dịch chuyển này phản ánh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa với sự gia tăng dân số trong ranh giới (hành chính) đô thị bình quân gần 1 triệu người mỗi năm, từ 24.6 triệu năm 2008 tăng lên trên 33 triệu năm 2018.

Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa trong thời giai qua đã góp phần giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tăng trưởng ở các đô thị trực thuộc Trung ương và một số đô thị tỉnh lỵ đã góp phần tăng nhu cầu lao động, việc làm, giải quyết lao động dôi dư từ khu vực nông thôn. Kết quả tích cực này thể hiện trong chỉ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo của các địa phương. Tăng trưởng nền kinh tế đã từng bước được chia sẻ trong cả nước thông qua phân bố ngân sách, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng sống và an sinh xã hội ở các vùng khó khăn.

Nhìn chung, thời gian qua, cùng với quá trình CNH- HĐH đất nước, tốc độ đô thị hóa của nước ta cũng ngày càng tăng nhanh, hệ thống đô thị quốc gia được quan tâm đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều đô thị, điểm dân cư nông thôn, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, du lịch, kết cấu hạ tầng… đã được qui hoạch, đầu tư xây dựng mới, hoặc cải tạo mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của đất nước. Hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kĩ thuật đô thị, kể cả khu vực nông thôn được quan tâm đầu tư xây dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại. Diện mạo kiến trúc, đô thị, nông thôn Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại, có bản sắc…Đô thị hóa đã thực sự góp phần tạo ra nguồn lực trong phát triển KT-XH của đất nước. Trong đó, kinh tế đô thị góp khoảng 70% GDP cả nước, các chỉ số thu ngân sách của các vùng tỉnh và các đô thị lớn cho thấy nhìn chung tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 12 đến 15%, cao gấp 1,2 đến 1,5 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Riêng Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đóng góp khoảng 30% GDP…

2. THÁCH THỨC PHẢI ĐỐI MẶT TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ TẠI VIỆT NAM

Theo một số nghiên cứu, quá trình đô thị hoá và tăng trưởng đô thị tại Việt nam sẽ tiếp tục diễn ra đến năm 2030, 2035. Mỗi năm Việt Nam tiếp tục tăng dân số đô thị >1 triệu người. Với sự tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ (chủ yếu là dịch vụ đô thị) như hiện nay, có lẽ dân số đô thị sẽ tiếp tục gia tăng với tốc độ thậm chí còn cao hơn trong những năm tới. Nếu như tốc độ tạo thêm việc làm mới ở khu vực chính thức tiếp tục tăng (ở mức cao hơn nhiều so với mức như hiện nay) thì tỷ lệ dân cư đô thị sẽ ngày càng tăng, số người sống ở vùng nông thôn sẽ ngày càng giảm. Cũng như dân số nông thôn ở Trung Quốc bắt đầu giảm một thập kỷ trước, điều tương tự đang xảy đến với Việt Nam. Nếu như tiêu chí để xác định cư dân đô thị được xác lập khách quan hơn chứ không dựa trên cơ sở địa giới hành chính như hiện nay thì trên thực tế, dân số đô thị sẽ cao hơn nhiều, đồng thời tốc độ tăng trưởng cũng nhanh hơn nhiều so với những số liệu thống kê hiện có. Những cuộc điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam đã ước lượng thấp dân số đô thị vì nó sử dụng các tiêu thức có tính hành chính để phân biệt dân nông thôn và thành thị. Nhiều xã được coi là nông thôn trong các cuộc điều tra này trên thực tế có mức độ đô thị hóa cao, nếu dựa theo các tiêu thức khách quan khác.

Mặc dù quá trình đô thị hoá đã diễn ra tương đối nhanh tại Việt Nam nhưng quá trình này đã có những ảnh hưởng đáng kể đến kịch bản phát triển. Nhất là hình thái cấu trúc phát triển đô thị còn có tính tự phát…Phát triển lan tỏa, theo dải (bám theo trục đường), mở rộng ranh giới đô thị theo cách sáp nhập các khu vực liền kề (như mô hình đô thị Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Đà Lạt…). Đô thị phát triển theo hướng đa trung tâm do tác động của nền kinh tế thị trường…Bên cạnh đó, việc phát triển “nóng” đô thị đã ảnh hưởng đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến sự cân bằng sinh thái: tài nguyên đất bị khai thác triệt để, thiếu tính khoa học để xây dựng phát triển đô thị, công nghiệp làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra úng ngập, cùng với nhu cầu nước phục vụ sinh hoạt, dịch vụ, sản xuất ngày càng tăng làm suy thoái nguồn tài nguyên nước; nhiều xí nghiệp, nhà máy gây ô nhiễm môi trường lớn trước đây nằm ở ngoại thành, nay đã lọt vào giữa các khu dân cư đông đúc; mở rộng không gian đô thị dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực quốc gia và đến đời sống của nhân dân ngoại thành; sản xuất công nghiệp phát triển mạnh làm phát sinh một lượng lớn chất thải, trong đó chất thải nguy hại ngày càng gia tăng; bùng nổ giao thông cơ giới gây ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn nghiêm trọng; đô thị hóa làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị, gây nên áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các khu nhà “ổ chuột” và khu nghèo đô thị. Theo số liệu thống kê của sở giao thông Hà Nội, lưu lượng xe ô tô trên các trục đường chính đạt khoảng 3000 – 7000 xe/giờ. Tỉ lệ xe máy, ôtô tăng nhanh, ước khoảng từ 17- 20% mỗi năm. Các loại xe phần lớn là cũ kỹ lạc hậu, hệ thống đường lại trong tình trạng quá tải hoặc thiếu sửa chữa, bảo dưỡng, xe thô sơ đi lẫn với xe cơ giới nên các xe phải thường xuyên thay đổi tốc độ, khí thải xả ra nhiều và gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Ô nhiễm bụi: Hà Nội khoảng 1,2mg/m3, gấp 3 – 4 lần tiêu chuẩn cho phép; Hải Phòng khoảng 1,8mg/m3; thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1,6mg/m3.

Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị là các vấn đề môi trường chưa được đề cập đầy đủ và quan tâm đúng mức trong quy hoạch xây dựng đô thị. Ngoài việc quy hoạch sử dụng đất và phân khu chức năng, các vấn đề cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, như hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác, xử lý nước thải, giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn,… chưa được chú ý đúng mức. Mặc dù việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các đồ án quy hoạch đô thị đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, nhưng công tác triển khai thực hiện cho đến nay vẫn còn chậm, chưa hiệu quả và chưa chứng tỏ được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong quy hoạch xây dựng đô thị.

Đặc biệt quá trình đô thị hoá tại Việt Nam có nhiều khả năng sẽ bị tác động mạnh khi triển khai sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị cấp xã; thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (cấp 1 gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; cấp 2/cấp dưới tỉnh gồm: phường, xã, đặc khu), bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Việc sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh từ 63 xuống còn khoảng 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không chỉ hướng đến mục tiêu xây dựng chính quyền gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, chủ động tiếp cận người dân thay vì để người dân phải tìm đến chính quyền mà còn tạo không gian phát triển kinh tế xã hội mới cho từng khu vực, từng địa phương hướng tới sự phồn vinh của đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, sau sáp nhập từ 63 xuống còn khoảng 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 06 thành phố trực thuộc Trung ương gồm TP.Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ). Hệ thống đô thị thuộc 28 tỉnh mới, 06 thành phố trực thuộc Trung ương được phân thành các phường để phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Theo cách hiểu đơn giản hệ thống đô thị 

Việt Nam trước ngày 01/7/2025 sẽ không tồn tại khi chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động.

Tiến trình đô thị hoá tại Việt Nam cần được tư duy lại cho phù hợp với không gian lãnh thổ quốc gia sau tái cấu trúc và mô hình, chiến lược phát triển đô thị trong giai đoạn tới.

3.ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC CẢI TẠO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM

Tương lai đô thị hay quá trình đô thị hoá tại Việt Nam cơ bản đã được định hình trên tinh thần Nghị quyết 06 của Bộ Chính Trị (năm 2022) và Chương trình hành động (Nghị quyết 148/NQ – CP) của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 06 của Bộ Chính Trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: “Đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững trong thời gian tới;…Đô thị hoá và phát triển đô thị trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng ở mức cao, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Bước đầu đã hình thành cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới sáng tạo; khoa học, công nghệ; giáo dục, đào tạo tại các đô thị lớn, nhất là tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tầm nhìn đến năm 2045: Tỷ lệ đô thị hoá thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và Châu Á. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỉ trọng lớn”.

Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 06 của Bộ Chính Trị và Chương trình hành động của Chính phủ về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có hiệu quả, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, trước mắt cần quan tâm tới một số nội dung sau:

 (1) Đô thị vẫn luôn được khẳng định là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp; là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ; được tổ chức, quản lý phát triển theo quy hoạch và quy luật của quá trình đô thị hoá.

(2) Hệ thống đô thị quốc gia tiếp tục được phân cấp, phân loại phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

(3) Nhận diện đô thị, khu vực đô thị, khu vực phát triển đô thị, ranh đô thị, vùng đô thị hoá thông qua ĐƠN VỊ ĐÔ THỊ là cấp PHƯỜNG. (Phường là nhân tố chính tạo dựng cấu trúc khu vực đô thị…)

z7135268385479_36ccb34f6e185af8996e8fabc6f7ed1a

Vai trò của chính quyền đại phương trong công tác QHXD (TG)

Theo đó, đô thị có phạm vi không gian là Phường (độc lập) – ĐVĐT nếu đủ điều kiện theo quy định, là ranh tập hợp các phường – ĐVĐT/Khu vực phát triển đô thị; Đô thị mở rộng hoặc đô thị mới có phạm vi không gian phát triển được UBND cấp tỉnh xác định trên cơ sở định hướng phát triển đô thị tại quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị và nông thôn hoặc quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và theo quy định của Chính phủ. Tuỳ vào trường hợp cụ thể ranh tập hợp các phường – ĐVĐT/Khu vực phát triển đô thị có quy mô diện tích, dân số, cấp loại đô thị tương đương với các loại đô thị tại thời điểm trước ngày 01/7/2025. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quyền hạn tổ chức lập ranh tập hợp các phường – ĐVĐT/Khu vực phát triển đô thị, lập quy hoạch chung và các loại quy hoạch đô thị, nông thôn khác theo quy định của pháp luật. (Nghị định số 145/2025/NĐ-CP/ngày 12 tháng 6 năm 2025 của Chính Phủ về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp; phân quyền phân cấp trong lĩnh vực quy hoạch Đô thị và Nông thôn; Nghị định số 178/2025/NĐ-CP/ngày 1/7/2025 của Chính Phủ quy định chi tiết mộ số điều của Luật quy hoạch Đô thị và Nông thôn/Điều 7).

Trên cơ sở đó cần thống nhất nhận thức: [a] PHƯỜNG – ĐƠN VỊ ĐÔ THỊ; XÃ – ĐƠN VỊ/CƯ TRÚ NÔNG THÔN; [b] ĐÔ THỊ – TẬP HỢP CÁC ĐƠN VỊ ĐÔ THỊ/ĐVĐT; [c] KHU VỰC (PHÁT TRIỂN) ĐÔ THỊ: Là khu vực tập hợp các ĐVĐT được tổ chức không gian trong một cấu trúc tổng thể thống nhất, theo mô hình và tiêu chuẩn đô thị. Các loại hình tổ chức không gian trong khu vực/phát triển đô thị bao gồm: (1) Khu đô thị mới: là khu vực được định hướng để phát triển theo mô hình và tiêu chuẩn đô thị. (2) Khu đô thị hiện hữu: là khu vực đã phát triển theo mô hình và tiêu chuẩn đô thị. Căn cứ vào đặc điểm và tỷ lệ lấp đầy của khu vực, có thể lựa chọn mô hình tổ chức không gian đô thị theo các dạng: khu bảo tồn cấu trúc đô thị lịch sử, khu cải tạo, chỉnh trang, khu tái thiết… [d] KHU VỰC LẬP QUY HOẠCH ĐÔ THỊ: là phạm vi hành chính của thành phố trực thuộc trung ương; Khu vực/phát triển đô thị: cụm phường xã, phường riêng lẻ, hoặc khu vực được định hướng trở thành đô thị, được xác định (trong quy hoạch cấp trên, hoặc do cơ quan có thấm quyền quyết định) để quy hoạch như một chỉnh thể đô thị thống nhất.

(4) Phân loại và hệ thống đô thị. Khu vực quy hoạch đô thị có thể được chia thành 04 loại theo quy mô dân số: (i) Siêu đô thị: có quy mô dân số từ 3 triệu người trở lên; (ii) Đô thị lớn: có quy mô dân số từ 0,5 đến 3 triệu người; (iii) Đô thị trung bình: có quy mô dân số từ 50.00-500.000 người: (iv) Đô thị nhỏ: có quy mô dân số dưới 50.000 người…

Hệ thống đô thị của tỉnh, TP trực thuộc Trung ương được nghiên cứu xác định trong Quy hoạch tỉnh và TP trực thuộc Trung ương theo Luật Quy hoạch (Luật năm 2017 sửa đổi) nhưng không nên tích hợp “cứng” vào các quy hoạch này; quy hoạch đô thị – nông thôn của tỉnh, TP trực thuộc Trung ương được xác định là quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành; việc lập quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển theo Luật Quy hoạch Đô thị – Nông thôn Luật (năm 2024 sửa đổi)…

z7135268378185_625f4cb17dd54c82b6c26e09e8879692

Ý tưởng cải tạo, chỉnh trang khu vực Hồ Gươm và phụ cận (VIUP)

Việc phân loại đô thị cũng cần quan tâm đến mối quan hệ với việc phân loại đơn vị hành chính (ĐVHC) để khắc phục những bất cập trong các quy định hiện hành và phù hợp với thực tiễn sau khi sáp nhập (dự thảo Nghị định của Bộ Nội vụ về phân loại ĐVHC). Theo đó, trừ TP Hà Nội và TP.HCM là đơn vị hành chính loại đặc biệt, các thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị hành chính loại I, các đơn vị hành chính còn lại (tỉnh, phường, xã, đặc khu…) được phân thành 3 loại (loại I, loại II, loại III), được thực hiện bằng phương thức tính điểm (dưới 60 điểm đạt loại III, từ 60 đến 75 điểm đạt loại II, trên 75 điểm đạt loại I). Nội dung phân loại đô thị đối với từng loại hình đơn vị hành chính được điều chỉnh cho phù hợp với quan điểm, nguyên tắc và bối cảnh thực tiễn…

(5) Cải tạo phát triển đô thị. Khu đô thị hiện hữu (khu vực đô thị đã phát triển) căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, lịch sử – văn hoá, thực trạng đầu tư phát triển và tỷ lệ lấp đầy của khu vực đô thị, có thể lựa chọn mô hình tổ chức không gian, phân vùng chức năng đô thị theo hướng: i/ Khu bảo tồn, phát huy giá trị đô thị lịch sử; ii/ Khu cải tạo, chỉnh trang; iii/ Khu tái thiết…theo hướng xanh, thông minh, đổi mới, sáng tạo…tuỳ vào nhu cầu, định hướng, tầm nhìn của đô thị đã được xác định trong Quy hoạch tỉnh, TP trực thuộc Trung ương và nhiệm vụ quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt..

Khi thực hiện cải tạo hoặc xây dựng/tái thiết lại một khu vực trong đô thị phải bảo đảm không làm đứt gãy tính liên tục cấu trúc đô thị qua từng giai đoạn phát triển; tiết kiệm đất đai, ưu tiên đáp ứng nhu cầu tái định cư tại chỗ cho những người dân trong khu vực; cải thiện điều kiện kiến trúc, cảnh quan và môi trường đô thị; xây 

dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ công cộng trên cơ sở cân đối hài hoà với các khu vực xung quanh; bảo vệ di sản văn hoá, di tích lịch sử, bản sắc truyền thống của đô thị và khu vực.

Hiện nay, do nguồn ngân sách Nhà nước eo hẹp, nên việc thực hiện công tác cải tạo, chỉnh trang đô thị từ ngân sách rất khó khăn. Do đó, cần phải nhìn nhận một cách khách quan xã hội hóa trong đầu tư mới là nguồn lực lớn nhất. Đây cũng phù hợp với quan điểm đổi mới của Đảng về vai trò, vị thế, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển KT – XH của Đất nước ở giai đoạn vươn mình.

(6) Đô thị là một quá trình phát triển, cải tạo, nâng cấp, tái thiết, xây dựng mới, là quy luật khách quan…Đô thị luôn lưu giữ trong mình nó giá trị lịch sử, văn hoá, kinh tế, xã hội; những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể…Bởi vậy, không vì việc thực hiện Mô hình chính quyền địa phương hai cấp, đô thị bị phân mảnh thành phường, xã mà quên tính liên tục của một cấu trúc đô thị hoàn chỉnh đã có thời gian phát triển, trưởng thành, có thương hiệu, đẳng cấp…mà làm mất đi, mờ đi “hồn cốt” của đô thị trong quá trình cải tạo, tái thiết, phát triển của đô thị ở bối cảnh mới như hiện nay.

4. THAY CHO LỜI KẾT

Để thúc đẩy quá trình đổi mới, hội nhập sâu rộng vào khu vực và quốc tế. trong kỷ nguyên vươn mình, cùng với nhận thức sâu sắc về vai trò, vị thế và tầm quan trọng của quá trình đô thị hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến quá trình này. Cùng với các chiến lược, chương trình thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, chương trình nhằm định hướng, chỉ đạo thực hiện quá trình đô thị hóa thành công. Ban hành nhiều cơ chế chính sách có tính đặc thù nhằm quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam theo hướng xanh, thông minh, sáng tạo, hội nhập.

Phát triển đô thị là một quá trình. Đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá Đất nước. Việc hoàn thiện cơ chế chính sách trong quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam là công cụ hữu hiệu để đô thị Việt Nam ngày một đàng hoàng, to đẹp hơn trong kỷ nguyên thịnh vượng, hùng cường của Đất nước.

KTS Trương Văn Quảng

 PTTK Hội Quy hoạch phát triển Đô thị Việt nam (VUPDA

Tài liệu tham khảo

1. Con đường đô thị của hóa Trung Quốc/Người dịch: Nguyễn Thị Mai Anh; Hiệu đính và biên soạn: Bạch Minh Tuấn.

2. Con đường phát triển đô thị hóa của Hàn Quốc/Dương Minh/Nguồn: http://www.newsccn.com (Trang web: Tin tức xây dựng Trung Quốc) ND: Bích Ngọc

3. Đô thị hóa trên thế giới: Những cái bẫy cần tránh/ Phạm Hoàng/Nguồn: Chinhphu.vn ngày 12,16,18/10/2017.

4. Đô thị hoá và phát triển các khu ven đô ở các thành phố lớn của Việt Nam/PGS.TS. Lưu Đức Hải

5. Nghị quyết 06 – NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính Trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

6. Kết luận số 127-KL/TW về triển khai nghiên cứu, để xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị…

7. Dự thảo Nghị định của Chính phủ Quy định về phân cấp, phân định trách nhiệm, thẩm quyền trong hoạt động quy hoạch đô thị và nông thôn khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp…/Bộ Xây dựng.

Check Also

IMG_1338 (1) (1)

CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TRUNG TÂM ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

I.GIỚI THIỆU Tái cấu trúc đô thị là quá trình tất yếu đối với các …